Tuesday, September 27, 2011

VĂN TÔ

MỘT TIỂU ĐỘI TQLC Trong một gia đình đã ...



Trong khi tham dự lễ Chiến Sĩ trận vong dưới chân tượng đài chiến sĩ Việt-Mỹ ở Westminster CA, tôi nghe mấy em trẻ tuổi nói nhỏ với nhau là tại sao không viết tên các quân nhân Việt Nam đã hy sinh trên những phiến đá đen xung quanh tượng đài như các quân nhân Mỹ đã được khắc tên trên bức tường đá đen ở Washington D.C?


Nhớ lại một lần đi thăm thủ đô, người bạn dẫn tôi đến công viên nơi có bức tường đá đen ghi danh 58 ngàn quân nhân Mỹ đã hy sinh trên chiến trường Việt Nam, tôi đọc tên họ và đôi lúc đứng lại thật lâu tưởng như ngắm bóng mình in trên vách đá. Thấy tôi có vẻ “hâm hấp” và hơi mất thì giờ nên anh bạn nửa đùa nửa thật hỏi:
- Tìm mãi mà không thấy bảng vàng đề tên mình hả?


Biết anh bạn muốn trù ẻo nhưng tôi không quan tâm vì chợt nhớ đến đồng đội:
- Bóng mình thì có, còn tên mình thì không, nhưng thử cố tưởng tượng xem có một tên nào mang họ Lê, Trần, Hoàng, Nguyễn, Vũ v.v.. trên đó không?


Nay nghe mấy em nhỏ đặt vấn đề mà tôi thấy bâng khuâng, từ ngày bị giải ngũ cho tới nay, dường như chưa có một “người lớn trong cuộc” nào nghĩ đến vần đề này và đặt câu hỏi như các em! Có lẽ các em ao ước được đọc trên đó những cái tên như B2 Trần Nhẩy Dù, B1 Lê Biệt Động, HS Nguyễn Mũ Xanh, TS Đinh Thiết Giáp, Th/úy Trịnh bộ Binh, Tr/úy Vũ Phi Công v.v.. hơn là “các chiến sĩ vô danh”.


Ở bên Úc Châu, tượng đài Úc-Việt tại Adelaide có những viên gạch ghi tên các quân nhân Uùc-Việt tử trận được đem lát xung quanh tượng đài, dân chúng đến viếng thường cúi đọc những cái tên trên đó. Theo sự dò hỏi thì những viên gạch có khắùc tên do chính thân nhân thực hiện coi như đóng góp thêm cho ngân quỹ thực hiện tượng đài.


Nói cho các em nghe và cho chính mình thì việc thực hiện “ghi danh” như vậy rất có ý nghĩa, nhưng phải là chính phủ hay một tập thể thuần nhất mới có thể thực hiện được, còn với tập thể “tháng 3 gẫy súng” lộn xộn ở hải ngoại thì vô phương.


Hơn nữa, ở trong nước, nghĩa trang QĐ Gò vấp, nghĩa trang QĐ Biên Hòa đã bị phá nát cào bằng thì tìm tên các anh ở đâu? Thôi thì mỗi đơn vị nên dùng đặc san riêng của mình, coi đó như một “sử xanh” để lưu danh những đồng đội đã tử trận.


Đang nghĩ về các anh thì một cơn gió lốc nhẹ cuốn những tàn nhang trong lư hương bốc lên cao kèm theo những làn khói trắng như những hồn hoang hoảng hốt bay lên vào lúc hoàng hôn để về một nơi nào đó thật xa hay tìm về nơi .. xác mình còn bỏ lại trên chiến trường Việt Nam! Tôi nhớ đến những TQLC đồng đội đã ra đi, người thì may mắn còn nấm mồ, anh thì không, trong số đó có những anh em con cháu cùng huyết thống trong gia đình tôi và tôi thầm hỏi giờ này các người ấy đang ở đâu?


Giờ này các người ấy đang ở đâu thì chúng tôi không ai biết mà những thế hệ sau trong gia đinh lại cần biết nên các cháu thường đặt câu hỏi:
- Tại sao gia đình ta có nhiều ngày giỗ quá vậy? Những người ấy là ai? Liên hệ như thế nào? Và họ đã qua đời trong trường hợp nào?


Trước những câu hỏi đó, tôi không đành làm ngơ mà thấy cần có vài dòng về “Những người lính trong một gia đình đã hy sinh”.

Nếu những người trong gia đình đã hy sinh mà được gom thành một tiểu đội thì Anh là Tiểu đội trưởng, là người có thâm niên Binh Chủng TQLC nhất chứ không căn cứ vào cấp bậc vì anh đã được thăng cấp 8 lần trong đời binh nghiệp, khởi đầu là lon binh nhì đến cuối đời lính anh mang cấp bậc chuẩn úy.



Nhớ lại vào khoảng năm 1953, đám học sinh lớp nhất trường tiểu học Kiến An (BV) chúng tôi đang đánh “bi” trước sân trường thì có 2 chàng Tây gạch mặt say xỉn “lai” nhau trên chiếc xe đạp “duya-ra” tông vào, màn tiếp theo là chúng thượng cẳng chân hạ cẳng tay kèm theo “mẹc-xà-lù” khiến đám con nít chúng tôi đổ máu mồm dồn máu mũi. Thầy hiệu trưởng Nhữ Đình Chu, thầy giám thị Nguyễn hữu Lãng, cô giáo Thảo chạy ra can thiệp cũng bị hai tên “xê-lê-ga-le” rút dao găm ra hăm dọa. May thời lúc đó có 3 ông lính Việt Nam đi ngang, thấy chuyện bất bình, chạm tự ái dân tộc, nhất là có cô giáo trẻ đẹp đứng đó thế là “ba chàng ngự lâm” xung trận.
Kết quả cuối cùng 2 chàng Tây ôm đầu máu lên xe “am-bu-lăng” còn 3 chàng Việt bị quân cảnh Tây PM (Police Militaire) còng tay tống lên xe về đồn phân xử, hai trong ba người lính có tên là Nguyễn Duy-Xướng và Phạm khắc Dật.


Những ngày sau đó, các anh trong quân phục “Commando du Nord” kèm theo số 1 trên tay áo thường lảng vảng trước cửa trường, chờ tan học dẫn đám “nhóc” chúng tôi đi ăn kem cốc, bánh tôm ở sân vận động, ở đường Trần Hưng Đạo. Tưởng rằng thương học sinh nhưng thực ra là hối lộ để dò hỏi tin tức về cô giáo Tô thị Thảo.


Lâu không thấy các anh cho ăn kem, chúng tôi đến chỗ đóng quân ở Đền Sùng thì mới biết các anh đã đi đánh trận ở mãi Điện Biên rồi, tiếp đến chiến tranh tràn lan, hiệp định Genève chia đôi nước Việt, gia đình tôi di cư vào Nam, định cư tại Nha Trang và cô giáo Thảo mất dạy .. học nên mở tiệm bán sách ở trước cửa chợ Đầm.


Bất ngờ một sáng Chủ Nhật, anh “Commando du Nord” Nguyễn duy Xướng ngày xưa vào tiệm mua sách trong quân phục rằn ri Mũ Xanh, đơn vị của anh nay là TĐ1/TQLC cũng đóng tại Nha Trang và chẳng bao lâu sau, cô Tô Thị Thảo trở thành “hạ sĩ nhất phu nhân” và HS1 Xướng trở thành anh rể của người viết từ ngày đó.


Không có huy chương ngành dương liễu nhưng những sao vàng sao bạc, sao đỏ chiến thương thì dầy ngực, sẹo đầy người, những người lính Mũ Xanh từ cấp B2 leo lên đến cấp chuẩn úy đều như thế cả, Nguyễn duy Xướng cũng ở trong trường hợp đó.


Suốt thời gian chiến đấu ở TĐ1/TQLC, anh đi hành quân liên miên, bị thương quá nhiều, gẫy chân lọi tay, lòi ruột, mổ bụng v.v.. Các bác sĩ may cho anh một cái “phẹc-ma-tuya” từ ngực đến rốn. Lần cuối cùng lá phổi bên trái của anh bị cắt hơi nhiều nên đành phải thở tiết kiệm để sống qua ngày ở hậu cứ Phạm Khắc Dật.


Phạm Khắc Dật là một trong ba chàng “Ngự Lâm” ngày xưa đã cùng anh đả 2 “thầy tăng” (thằng Tây), cùng tham dự trận đánh mà anh Xướng bị trọng thương còn anh Dật tử thương, tên anh được đặt cho doanh trại TĐ1/TQLC ở rừng Cấm,Thủ Đức.

Lẽ ra với những vết thương ở cấp độ tàn phế thì anh được quyền giải ngũ và phải xin giải ngũ theo lời năn nỉ của chị tôi nhưng anh tỏ vẻ hơi ngang bướng và tàng tàng tuyên bố một câu xanh rờn mà chị tôi cho là “cải lương”

- Nếu có chết thì anh phải chết trong quân phục TQLC.


Câu này mà phát ra từ miệng một ông nhớn thì hay quá, có thể được ghi vào sách, nhưng anh chỉ là một trung sĩ 1 nên chị tôi cho là anh “khùng” và rồi không chịu đựng nổi những vất vả khi phải liên tiếp săn sóc chồng những lần bị trọng thương rồi lo âu buồn phiền khi anh tiếp tục đi hành quân nên chị tôi ngã bệnh qua đời!


Những mất mát về thể xác và tình thương không làm anh nản, bị loại khỏi vòng chiến thì anh vẫn hăng say phục vụ ở hậu phương, lăn như cái cối đá từ hậu cứ TĐ1 sang Trung Tâm HL rồi về căn cứ Sóng Thần v.v.. Sau 1975, vì bị thiếu “không khí” để thở nên anh đã ra đi trong một xó rừng ở Trảng Bom, dẫu binh chủng không còn nhưng xác anh được con bọc trong quân phục TQLC đúng với ước vọng lúc sinh tiền.


Anh đã cầm súng khi tôi còn bắn dây chun (thung) vậy mà sau này khi mang lon thiếu úy, được làm “xếp” của anh, tôi thường gọi anh và mấy ông trung sĩ già, thượng sĩ già là“Thằng cha đó” (!) Coi thường máu đỏ của họ đã tô đậm màu áo rằn ri, phát ngôn một câu vô ý thức: “Sống lâu lên lão làng” (!).

Giả tỷ ngày ra trường anh mang cấp bậc chuẩn úy thì với 8 lần lên lon, các anh cũng thuộc vào hàng tướng lãnh chứ ít sao? Nghĩ lại thật nực cười cho những tên nhi nhô hợm mình, ngựa non háu đá, nghé con chửi trâu già!



Nói về anh tôi nhớ tới những ông thầy trong đời binh nghiệp của tôi như chuẩn úy Lơ ĐĐ4/TĐ2 tử thương trên đồi Cồn Tiên, Chuẩn úy Hóa ĐĐ1/TĐ2 bị bắn mất 2 hòn bi trong trận Cầu Khởi, thượng sĩ Lô ĐĐ4/TĐ5 bị đạn cắt cụt chân trái tới háng mà vẫn cười vì vẫn giúp “thượng sĩ phu nhân” bổ sung quân số. Tôi nhớ tới thượng sĩ Cương, thượng sĩ Lư, trung sĩ 1 Khánh, trung sĩ Oanh v.v..Đối với tôi, họ là những bậc thầy về kinh nghiệm tác chiến và tính siêng năng, bởi vì với 10, 20 năm lính, sẹo đầy mình mà vẫn ôn tồn ép mình dưới những cái lệnh “ách xì” của các quan mới ra lò.


Một người làm quan cả họ được nhờ, nhờ gì không biết nhưng rõ ràng đời binh nghiệp của chuẩn úy Duy Xướng đã ảnh hưởng nhiều đến anh em. Tôi tiếp bước theo anh rồi một số em cháu khác cũng nhất định theo gương anh để được đội Mũ Xanh


Chẳng biết đó là vui hay buồn nhưng chắc chắn người buồn za-ziết là bà cô Châu, bà có thằng con trai duy nhất là Nguyễn văn Mão đang học lớp đệ tam trường Trần Lục thì bỏ học để đi lính rồi tình nguyện về phục vụ ở TĐ1/TQLC khiến bà chửi anh Xướng là đã xúi bẩy con bà bỏ học đi lính! Bà chửi tàn canh làm hai gia đình giận nhau, chưa nguôi cơn giận thì Mão tử trận tại ngã ba sông Định, Bích La thôn (QT). Cũng tại mặt trận này tôi ở bên TĐ2/TQLC chỉ bị thương thôi nên bà càng giận ..


Bà cô còn đang giận thì tới ông chú buồn phiền, ông chống ba-toong tới kiếm tôi bảo có cách gì lo cho thằng Tô thanh Sơn không? Nó tốt nghiệp trung sĩ và đã chọn TQLC rồi, làm sao để kéo nó ra khỏi binh chủng này?


Tôi không chơi thân với Sơn nên chẳng biết hắn học hành thế nào và tại sao lại chọn Mũ Xanh, nay nghe ông chú hỏi cách nào lo cho con của ông ra khỏi cái binh chủng mà tôi đang phục vụ nên tôi bị chạm tự ái bèn phang ngang bổ củi:
- Dễ lắm, không tốn kém gì cả, chú bảo em nó đảo ngũ.


Sơn không đảo ngũ mà còn hăng say phục vụ dưới cờ TĐ3/TQLC, hình như đại đội trưởng của Sơn là đại úy Nguyễn kim Tiền và trong trận tết Mậu Thân ở đầu cầu Bình Lợi (SG), Sơn đã về vui xuân với song thân trong cái “hòm gỗ cài hoa”! Thế là ba anh em “nhà nó” đã hy sinh trong quân phục TQLC.


Kế tiếp là Tô thanh Chiêu, thực ra lúc đầu Chiêu là SVSQ Không Quân đang thụ huấn bên Mỹ nhưng vì lý do đánh lộn với ông quan đại diện nên Chiêu và Nguyễn Gia Quyết bị trả về theo học khóa 26 Thủ Đức rồi tình nguyện về TQLC.

“Trời sinh Chiêu sao còn sinh Quyết!” Hai tên này mà đi cập với nhau thì đời chịu gì thấu! Họ có nhiều chuyện vui buồn với những biệt danh là 9-Quyết và 9-Chiêu.



Theo lời giải thích của bạn bè thì số 9 (cửu) ám chỉ hai ông thần này là khắc tinh của “nhất mực nhì vàng tam khoang tứ đốm”. Ngoài ra Chiêu bị mất một ngón nên chàng “Gẫy Súng” Cao xuân Huy khai sinh thêm cho Chiêu là: “Cửu Chỉ Thần Cái”


Anh ruột của Chiêu là Tô Đức Hạnh khoe với tôi là đã lo cho em về một nơi dễ tìm thấy .. chữ “Thọ” rất to nên tôi ngạc nhiên khi thấy Chiêu mang quân phục rằn ri đến tìm tôi rồi vỗ ngực khoe cái huy hiệu Hắc Long TĐ5/TQLC, tôi bèn chọc quê:
- Không kiếm đủ tiền để chi cho ông dân biểu Hạnh một chầu “rựa mận” nên đành làm thân lươn chẳng ngại lấm bùn phải không?


Chiêu hất hàm ra điều bực dọc khi tôi chọc hắn là con lươn thay vì Hắc Long:
- Tôi đẹp zai hơn anh, cao hơn anh không lẽ lại đứng thấp hơn anh?


Chẳng hiểu ở với Hắc Long đánh đấm ra sao mà sớm bị ôm đầu máu, bị thương rồi về trung tâm huấn luyện TQLC ở Thủ Đức. Anh em Hạnh-Chiêu-Giao chơi khá thân với tôi và thời gian này tôi cũng đang “nhổ cỏ” ở căn cứ Sóng Thần nên chiều nào sau giờ làm việc Chiêu cũng sang tôi đánh cờ tướng, thọc bi-da, lai rai hai ba sợi.


Sĩ quan độc thân lại là huấn luyện viên thì tiền lương tiêu được mấy ngày ở quán “Cây-Còn”, quán “Con Gà Quay”, quán 3 số 2 (222) có cô chủ luôn mặc quần đen Mỹ-A suốt đời thủng lỗ ở mông? 
Không tiền nên hắn hay sang cái am của tôi ăn cơm chùa. Nhiều lần đấu cờ tướng, tên nào thua phải ra cái hố đầu nhà cấu vài nắm rau muống nấu canh, rau muống mọc hoang nên có nhiều nhựa, nước đen như pha mực, anh em tôi vừa đánh cờ vừa xì-xụp canh đại dương rồi hắn rung đùi ngâm thơ:
- Người quân tử ăn không cần ngon, chỉ cần no.
- Ý chú mày nói quân tử ở đây là lính gà chết phải không?
Một chiều tối nọ, anh em tôi đang chiếu tướng bên tô canh rau muống như thế thì anh ruột của Chiêu đến dẫn theo chàng “Mỹ đi bộ” với cô vịt quay, Chiêu cầm chai Johnnie Walker ngắm nghía rồi gật gù:
- Thứ này là gu của moa.
- Thứ đếch nào có hơi men cũng là gu của toa! Dân tu chùa đừng có sạo.


Mỗi khi hắn mở miệng nói cái gì là tôi kiếm ngay cái tủ đứng kê vào miệng hắn nhưng nó chỉ cười “hề hề”! Vì chính hắn là vua chọc quê thiên hạ.

Cờ đang dở cuộc, rượu mới nửa chừng thì Tô đức Hạnh khơi lại chuyện lo cho Chiêu về tiểu khu Lâm Đồng đã xong rồi, thằng anh là dân biểu mà lo chỗ thọ cho thằng em cấp úy là chuyện nhỏ nhưng nó không chịu và to tiếng cự lại!



Đúng là “cờ dang dở cuộc không còn nước, rượu chửa qua môi đã cày sè!” Vài ngày sau Chiêu giã từ trung tâm huấn luyện, về đầu quân TĐ4/TQLC Kình Ngư. Hắn nói sống với Kình Ngư , chết với Kình Ngư ..! Và Chiêu đã toại nguyện.


Ngày 26/3/1975 trong khi “ta buồn ta đi lang thang” trong căn cứ Non Nước (ĐN) chờ lệnh TMT để ra tòa án QS (!) vì trình diện trễ 2 ngày thì tôi đụng tiểu đoàn trưởng TĐ18/TQLC là Cao-bồi Trần ngọc Toàn, anh hỏi tôi đã nghe tin gì chưa? Không đợi tôi trả lời, anh nghẹn ngào ứa nước mắt nói tiếp:
- Hai thằng Nam và Chiêu chết rồi!


Anh Toàn là TĐT/TĐ4 nhưng anh vừa bàn giao TĐ4 cho Đinh Long Thành để về Non Nước thành lập TĐ18, tuy nhiên anh vẫn theo dõi sát tình hình ở đơn vị cũ, anh cho biết trong lúc giao tranh dọc theo bãi biển từ cửa Thuận An đến cửa Tư-Hiền, Th/tá Nguyễn Trí Nam và Đ/úy Tô Thanh Chiêu đã tử trận chiều 25-3-1975.


Tôi không còn chỗ trong lòng để nhét thêm nỗi buồn nữa bèn chạy về Trung Tâm Hành Quân để hỏi tin tức về xác thằng em nhưng không ai biết, vài ngày sau thì được đồng đội của Chiêu cho hay đã đưa anh ấy lên tầu nhưng rơi lại xuống biển!


Cho đến nay, cấp chỉ huy và đồng đội của Chiêu vẫn không xác định được “Chiêu ơi bây giờ mi ở đâu? Thôi thì ở đâu cũng được, không lòng đất thì lòng đại dương, nôm na là mất xác!


Chiêu mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ nên anh em Chiêu rất thương yêu và lo cho nhau, nhưng không vì thế mà chiều lòng ông anh để thay bộ TQLC bằng bộ áo có chữ THỌ trước ngực. Bộ quân phục đã thấm máu thì khó cởi ra và Chiêu đã chết với bộ rằn ri TQLC như anh Duy-Xướng, như Nguyễn-Mão, như Tô-Sơn.


Khi còn ở chung với tôi ở CCST, Chiêu lập gia đình và có một cháu gái, nhưng chẳng may mẹ cháu bị tai nạn qua đời nên cháu gái về sống với ông bà ngoại ở phường Chợ Quán, Saigon.

Khi về TĐ4 ở Vũng Tầu, Chiêu kết duyên với cô ..(tạm gọi là Hồng Loan). Lúc Chiêu tử trận thì H.L mang thai và sau này sinh con gái. Cháu gái này hiện đã tốt nghiệp đại học và hành nghề luật ở California.



Chiến tranh! Sinh tử! Loạn lạc chia ly! Chừng nào hai chị em mới gặp nhau, nhận ra nhau và cùng đốt cho bố Chiêu một nén nhang? 

Vì sống gần nhau nên tôi có nhiều kỷ niệm vui buồn với Chiêu, một trong những kỷ niệm “miếng ngon nhớ lâu điều đau nhớ đời” đó là chiều Xmas Eve 1970, trong khi tôi đang nằm bệnh viện LHS, chân tay còn bó bột thì Chiêu và một người bạn nữa đến khiêng tôi lên xe, chở nhau ra Mai Hương trên đường Lê Lợi uống café.



Chiều Noel ngồi Mai Hương với café thuốc lá rửa mắt thì nhất, nhưng chưa hết gói Ruby Queen thì họ lại khiêng tôi lên một nhà hàng vũ trường gần đó. Nhà hàng hình như đang chuẩn bị cho dạ tiệc Noel nên chưa có thực khách, mấy cô guây-trét có vẻ ngạc nhiên khi chúng tôi đến quá sớm nhưng họ vẫn tiếp đón lịch sự có lẽ vì thương hại thấy 2 thằng khiêng một thằng.


Chiêu cầm thực đơn gọi món nhậu gì đó rồi kéo cô “cổ lùn” từ túi áo jacket ra để lên bàn, một lúc lâu sau tiếp viên nhẹ nhàng đặt trước mặt mỗi thằng một đĩa nấm “chiên bơ”(!). Dân chơi thứ thiệt không thắc mắc về mồi nhậu mà .. men mới là chính nên cứ nhâm nhi và nghe nhạc “Đêm Thánh vô cùng”, nghe “Thằng Bé đánh trống”.


Khoảng 9 giờ tối thì hết rượu, chúng tôi đứng dậy rủ nhau đi nhà thờ Đức Bà mà cái biu tính tiền thì gần hết tháng lương vừa lãnh! Đang tính hỏi nhân viên sao cái máy chém sắc thế thì sực nhớ ra đây là vũ trường. Vừa ra khỏi cửa, có tiếng than phiền:
- “C ..! Sao mày lại gọi nấm? Ai nhậu với nấm? Ngu thế!”


Chiêu cười hề hề:
- Tao gọi chim bồ câu chiên bơ nhưng không hiểu sao tụi nó mang nấm? Rõ ràng tao “o-đơ champignons” mà. (thực đơn bằng tiếng Tây).
- “C ..(lại c..) champignons là nấm đó ông nội, còn chim cu là pigeon, gọi mẹ nó bằng tiếng Việt là “chim cu” có phải đỡ vất vả vì nấm không, phí cả tiền!


Đúng là một kỷ niệm khó quên của lính tiền tuyến bày đặt đi nhậu ở vũ trường hậu phương, vừa đau chân, đau cái ví và buồn cười vì vốn tiếng Tây học đã sôi cơm nhưng chửa chín nên chữ Tác đánh chữ Tộ, chữ Ngộ hóa chứ Quá! Chim cu hóa nấm!


Tôi muốn nói nhiều về Chiêu nhưng nên để đồng đội và bạn bè của Chiêu kể một vài kỷ niệm về hắn thì hơn.


Nguyễn gia Quyết: “Chiêu sống hết lòng với bạn bè, ngay cả những thằng chơi không tốt với nó. Một ly café đen, một điếu Basto xanh cũng đem chia xẻ với anh em. Tháng 10/74, Chiêu hỏi tôi cho cái gì khi nó cưới vợ? Tôi Ok một bộ vest, nhưng rồi chiến tranh khốc liệt, chúng tôi mất liên lạc với nhau cho tới khi nó ra đi vĩnh viễn!
- Chiêu ơi! Tao vẫn còn thiếu mày một món nợ chưa trả!


Trong tác phẩm “Tháng Ba Gẫy Súng” tác giả Cao Xuân Huy đã nói về thái độ ung dung của Chiêu lúc hành quân, khi nghỉ ngơi thì vui vẻ chịu chơi, ăn nhậu. Đại đội trưởng Dương công Phó, là bạn, là cấp chỉ huy của Chiêu thì nói:
- Chiêu là thằng có tình có nghĩa, biết trọng cấp trên, thương thuộc cấp, cho lính nhậu nhưng không được say, say thì đi ngủ, thằng nào mượn hơi men mà quấy rầy thì không cho uống, không cho tu mà lấy rượu đổ vào họng, ấn đầu vào rượu cho ngộp luôn. Đó là cách Chiêu trị bệnh say-quậy của lính, thế mà chúng nể sợ.


Sau 1975, tôi gặp một số TPB thuộc đại đội của Chiêu đã ca tụng “ông thầy” Chiêu vì cứu họ mà hy sinh, nay những TPB ấy sống chết ra sao? Nhân dịp có nhiều ca nhạc sĩ hát cho TPB, tôi nói với Hạnh (bố của Tô chấn Phong và anh vợ của Sơn):
- Bạn có một em ruột, một em vợ (anh ruột của Trịnh Nam Sơn) đã chết vì nước, nếu bạn gợi ý với Trịnh Nam Sơn và vợ chồng Tô chấn Phong tổ chức một buổi ca hát cho TPB nghe thì thật có ý nghĩa, hai thằng em ở suối vàng cũng mát lòng.

Chiến tranh kéo dài, trong một gia đình có hai ba thế hệ cùng chiến đấu là chuyện bình thường, năm anh em tôi đã và đang mặc quân phục TQLC và bốn tên đã hy sinh thì lại đến lượt các cháu lén lút theo sau. Một sáng Chủ Nhật tôi ngạc nhiên khi thấy 3 bà chị kéo nhau vào căn cứ Sóng Thần tìm gặp tôi rồi cự nự:

- Cậu tính thế nào chứ mấy thằng cháu tụi nó bắt chước cậu đăng vào lính TQLC hết rồi, hiện chúng đang tập ở trung tâm huấn luyện, cậu xin cho tụi nó về được không? Mấy cậu chưa đủ hay sao mà còn dắt các cháu vào để chết chùm cả đám à?


Thì ra thằng Vũ văn Tuấn, con bà chị ruột và thằng Thanh, thằng Úy con 2 bà chị họ cùng rủ nhau đi TQLC. Tôi tìm gặp chúng và hỏi xem có muốn xuất ngũ không thì thằng nào cũng lắc đầu, tôi cũng chẳng muốn chúng đảo ngũ, tôi bảo:
- Thời chiến tranh học hành dở dang đằng nào cũng phải đi lính.


Tôi nói với mấy bà chị như vậy và hứa sẽ lo cho các cháu sau. Mãn khóa, Nguyễn văn Thanh được nhận về tiểu đoàn quân y, Vũ văn Tuấn về TĐ4, Nguyễn thiếu Úy về TĐ2. Cháu Thanh được tiếp tục học nghề chuyên môn y tá thì không lo, nhưng còn Tuấn và Úy thì tôi nói với 2 ông TĐT Quang và Hợp trông chừng dùm.


Cháu Thanh sau khi tốt nghiêp y tá được đi theo bác sĩ Phạm vũ Bằng hành quân, tưởng thế là an tâm vì ông lang Tây này rất thương thuộc cấp và mát tay, nhưng rồi ông thầy bị thương, trò Thanh tử trận!


Thật đau lòng khi tôi đến chia buồn cùng bà chị, mẹ của Thanh, thì bà nhìn tôi rồi ôm quan tài phủ cờ của con khóc đay nghiến:
- Thanh ơi! Dậy đi con, cậu C .. đến thăm con đây này!
Từ đó tôi tránh gặp mặt các bà chị, nhưng chẳng bao lâu bà chị ruột đến nhà khóc lóc ăn vạ với mẹ tôi và bảo tôi phải đi tìm xác cháu Tuấn. 

Sau khi được về TĐ4 thì Tuấn viết thơ cho tôi khoe là được ông thầy Quang cho đi học lái xe nhưng cháu không thích và xin ra tác chiến rồi nó chết mất xác tại Quảng Trị năm 1972! Âu cũng là tại số?



Tội nghiệp nhất là bố mẹ của Úy! Vốn là dân “tay cày vai bừa” nên sinh được mấy thằng con đặt tên là Thiếu Úy, Trung Úy, Đại Úy v.v.. Nhưng thằng Úy về với Trâu Điên chưa ấm chỗ thì tiểu đoàn trưởng Trần văn Hợp gọi cho tôi biết:
- Sorry, cháu mày chết rồi!


Cháu Úy tử thương ở trận Cửa Việt và được truy thăng Binh Nhất! Tội nghiêp! Nếu nó còn sống và tiếp tục chiến đấu thì thế nào 20 năm sau cũng lên tới ông quan thiếu úy, đạt được nguyện vọng của song thân.


Lần cuối cùng tôi gặp cháu Úy khi nó về phép, thấy cháu đội cái mũ rộng vành có thêu hình con Trâu-Điên thật to lại có vẻ hung hăng con bọ xít, hù đám bạn cùng xóm (nhà Úy cách nhà tôi 5 căn), tôi gọi cháu sang nói nhỏ:
- Trâu Điên chỉ điên khi đụng trận với VC nhưng hiền lành ở hậu phương, lịch sự với mọi người, những trâu già đụng trận đến mòn cả sừng mà không ai biết, cháu mới chỉ là “nghé con” đẻ thiếu tháng mà lúc nào cũng hung hăng làm mất mặt những Trâu Điên thứ thật, coi chừng bị điên thật đấy!


Sau lần bị tôi rầy, cháu Úy ra đi và không ngờ đi luôn! Tôi không hối hận nhưng buồn, có 3 thằng cháu nối bước cha ông vào TQLC rồi thay nhau tử trận!


Biết làm sao hơn! Thân tôi bị trọng thương, loại khỏi vòng chiến, không xin giải ngũ để được lang thang như “chó ba chùa”, làm công việc của những .. “con mèo” nên chỉ có khả năng lo cho cháu thế thôi, mà chúng cũng không muốn là lính kiểng.


Ngoài 7 anh em và cháu đã hy sinh dưới cờ TQLC, gia đình chúng tôi còn góp thêm 4 mạng nữa cho chiến trường, đó là là thượng sĩ Thiết giáp Tô văn Đát “ra đi” tại Tây Ninh, Thiếu úy Nguyễn văn Phong SĐ23/BB tử trận trên Cao Nguyên và em ruột của Phong là Hải Quân Nguyễn văn Tuấn đã nằm sâu dưới lòng biển cả trong trận hải chiến với quân Trung cộng tại quần đảo Hoàng Sa! Và QC Vũ văn Hùng (em ruột TQLC Tuấn) chết trong lúc bảo vệ kho đạn Gò Vấp.

Nói về 11 người lính trong một gia đình đã hy sinh vì Tổ Quốc không phải để than van hay khoe khoang, vì tất cả chỉ là lính và họ đã hy sinh thì cũng cần một lần nhắc đến tên, một lần xướng danh để con cháu họ biết có những người cha người chú đã sống và chiến đấu rồi chết như thế nào trong binh chủng TQLC nói riêng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung.

Có vô vàn những gia đình miền Nam cùng hoàn cảnh mà anh em tôi chỉ là điển hình. Những cái chết của người lính QLViệt NamCH khi đối đầu với quân CS đã đem lợi ích và sống còn cho nhiều giới, trong đó có giới thầy tu, trốn việc quan đi ở chùa nhà thờ. Giờ này những linh hồn lính ấy đang lang thang nơi đâu! Nhưng vốn là dân cầm súng (sát sanh), uống rượu và xuống xóm thì nắm phần chắc là không có mặt trên Thiên Đàng hay Niết Bàn như những nhà tu hành đang làm “điều lành phúc đức”


Nếu biết thế thì ngày xưa sao không đi tu để được phẻ cái phần hồn, thoải mái cái phần xác để ngày nay được an toàn trên đất Mỹ tiếp tục làm điều phúc đức như những nhà tu và hành đã đang và sẽ làm.
Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn, muốn lên Thiên Đàng, Niết Bàn thì tích đức, đầu tư để nắm chắc có một chỗ RIP trên Trời bằng cách kêu gọi đồng hương tỵ nạn CS hải ngoại đóng góp $ để cứu trợ cho nạn nhân nhân tai của nhà nước XHCN, còn “tụi TPB/QLViệt NamCH” thì sống chết mặc bay! Ngày đại nhạc hội cứu trợ TPB có ngàn ngàn người .. con tham dự nhưng không thấy bóng .. thầy cha nào cả! 

Cũng chả sao! Nhưng cha dùng câu nói của “bác” để gọi con chiên, phật tử, để quảng cáo cho chương trình quyên góp của quý ngài thì chướng quá! Tối 7/12 trên làn sóng phát thanh 1480AM ông thầy tu VTT(Vũ thấy Tiền) mở đầu chương trình quyên góp, kêu gọi đồng hương cấp học bổng cho học sinh trong nước bằng câu:

- Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”!!!!!!!!!!!!!!!!!


Thôi đi bố, ỷ là cha muốn nói gì thì nói làm đau cái lòng những con cuốc-cuốc đã hy sinh vì ..cha thì kỳ quá! Đó cũng là lý do .. tôi kể cha nghe, không phải chuyện tình Lan & Điệp mà là chuyện tình người lính chiến chịu nhiều cay đắng.


No comments:

Post a Comment