Saturday, January 14, 2012

* Mỹ hướng Đông: Điều gì sẽ xảy ra?

Trụ cột châu Á của chính quyền Obama sẽ thiết lập một cách tiếp cận cân bằng hơn về kinh tế, ngoại giao và an ninh. Việc phê chuẩn Thỏa thuận Tự do Thương mại (FTA) Mỹ - Hàn Quốc gần đây và các nỗ lực tạo ra TPP là những bước rất quan trọng theo hướng này.
Nhưng chiến lược châu Á hội nhập mới này có nguy cơ quá đà khi tạo ra những kỳ vọng mà Washington sẽ không thể đạt được và khi nó nuôi dưỡng những mối hoài nghi ở Trung Quốc có thể dẫn tới một quan hệ Mỹ - Trung "nóng" hơn.
Báo chí Mỹ mô tả chuyến đi của ông Obama là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ ở châu Á, thách thức và ngăn chặn Trung Quốc trong mọi hướng. Việc các sáng kiến của Mỹ bề ngoài nhận được sự ủng hộ nhiệt tình bằng miệng của gần như tất cả các quốc gia lớn tại hội nghị thượng đỉnh Đông Á cho thấy rõ điều đó. Nhưng thực thế lại phức tạp hơn nhiều, cả về điều mà Tổng thống muốn làm cũng như kết quả có thể đạt được.

Một chiến lược phức tạp hơn của Mỹ
Chính quyền của Tổng thống Obama không tìm cách đương đầu với Trung Quốc ở bên ngoài. Thay vì thế, họ có cách tiếp cận hai hướng: tái khẳng định và củng cố quan hệ hợp tác với Trung Quốc; và thiết lập một sự hiện diện mạnh và đáng tin cậy của Mỹ trên toàn châu Á nhằm khuyến khích Trung Quốc hành xử một cách mang tính xây dựng, đồng thời tạo niềm tin cho các quốc gia khác trong khu vực mà họ đang cần để ngăn chặn khả năng bá quyền của Trung Quốc trong khu vực.
Chiến lược châu Á hội nhập mới này có nguy cơ quá đà khi tạo ra những kỳ vọng mà Washington sẽ không thể đạt được.
Chính quyền Mỹ vì thế tiếp tục tập trung các nỗ lực vào phát triển các quan hệ cá nhân mật thiết giữa các quan chức cấp cao chủ chốt ở Washington với Bắc Kinh. Ông Obama gặp Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào 10 lần (bao gồm cả hội nghị ở Honolulu) và với Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhiều lần. Ngoại trưởng Clinton đã có cố gắng đặc biệt trong việc khích lệ Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc, ở góc độ cá nhân, khi tiến hành các cuộc gặp không chính thức với ông kéo dài nhiều giờ. Và Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy Geithner thiết lập các liên lạc rất mật thiết với người đồng cấp Trung Quốc, Phó Thủ tướng Vương Kỳ Sơn.
Tinh thần của các cuộc gặp cá nhân trên là nêu các quan điểm của từng bên về các vấn đề sẽ được thảo luận chính thức nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau và gia tăng sự tin tưởng lẫn nhau. Khởi đầu là sự tôn trọng lẫn nhau và thừa nhận các lợi ích có liên hệ với nhau sâu sắc giữa Trung Quốc và Mỹ. Các cuộc thảo luận kín này vì vậy được thiết kế nhằm hạn chế những nguy cơ thù địch không đáng có giữa Mỹ và Trung Quốc. Những hoạt động trầm lặng này trong ngoại giao song phương là nhằm quản lý các căng thẳng Mỹ - Trung trong tương lai và thiết lập quan điểm và chương trình cho nhiều cuộc gặp Mỹ - Trung thường kỳ giữa hai Chính phủ trong suốt thời gian qua.

Phản ứng của Trung Quốc
Trung Quốc ngạc nhiên trước "bản hòa tấu" mà Mỹ chơi hồi tháng 11. Phản ứng ban đầu của họ là khá dịu, có thể một phần vì sự đảm bảo cá nhân mà họ đã nhận được trong các cuộc gặp giữa các lãnh đạo cấp cao, nhưng cũng một phần vì sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo chính trị trong năm tới ở Bắc Kinh. Chính quyền của ông Hồ Cẩm Đào muốn tránh mọi sự xuống cấp nghiêm trọng trong quan hệ Mỹ - Trung và nhiều khả năng không muốn tạo ra nguy cơ xét lại từ bên trong đối với mối quan hệ này trong năm rất nhạy cảm về chính trị sắp tới.
Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc cũng không muốn sụp đổ đằng sau tình cảm dân tộc nếu tình cảm đó càng lớn nhanh khi nhận thấy các nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn cản một Trung Quốc nổi lên và giành vị trí chính đáng của mình ở châu Á. Tình cảm này có thể làm tăng sức ép đối với giới lãnh đạo đất nước, buộc họ phải chống lại sự xác quyết bá quyền của Mỹ tại sân sau của Trung Quốc và nhắc nhở Mỹ về sự thay đổi cán cân quyền lực thực sự tại châu Á.
Các khả năng có thể bao gồm leo thang căng thẳng nói chung, giảm hợp tác trong các vấn đề như trừng phạt Iran và đối phó với quá trình kế nhiệm đang diễn ra ở Triều Tiên và gây ra ngày càng nhiều sự cố tại vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, không khả năng nào có thể bị loại trừ. Mỗi khả năng có thể tạo ra sự leo thang va chạm và mất tin tưởng lẫn nhau trong quan hệ Trung - Mỹ. Vai trò của quân đội trong nền chính trị Trung Quốc cũng là một nhân tố tác động đến những phản ứng này trong năm chuyển giao thế hệ lãnh đạo sắp tới.
Vì vậy, quá trình chuyển giao ở Trung Quốc có thể đẩy tình hình sang hướng này hay hướng kia, tùy thuộc vào các diễn biến trong nước. Để tránh sự thay đổi theo chiều hướng xấu đòi hỏi các nỗ lực ngoại giao năng động, bền vững và thận trọng của Mỹ.

Sự thay đổi chính quyền bên trong
Chính sách với Trung Quốc của chính quyền Obama ngay từ những ngày đầu đã định hình chủ yếu bởi sự hợp tác chặt chẽ giữa Thứ trưởng Ngoại giao James B. Steinberg với Giám đốc phụ trách khu vực Đông Á thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Jeffrey Bader. Đây là hai quan chức cấp cao đầu tiên giải quyết với Trung Quốc tại vị từ năm 2009, và họ đã phát triển quan hệ hợp tác rất hiệu quả nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của Nhà Trắng đặc biệt về Trung Quốc, và cả về các chính sách châu Á nói chung.
Từ cuối năm 2009 trở đi, xuất hiện một luồng suy nghĩ khác tại Bộ Ngoại giao, được một số người ở Lầu Năm Góc ủng hộ, theo đó muốn một quan điểm cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và được chuẩn bị nhiều hơn để cảnh báo các nước khác trong khu vực lo lắng về các năng lực ngày càng gia tăng của Trung Quốc và tập hợp họ lại với nhau để kiềm chế Trung Quốc. Hai dòng tư tưởng này không xung đột với nhau, nhưng mỗi dòng có chủ ý tìm cách định hình toàn bộ chính sách của Mỹ và thường cung cấp các lời khuyên chiến lược khác nhau trong nhiều vấn đề.
Các ông Steinberg và Bader rời Chính phủ Mỹ đầu năm 2011. Sau sự ra đi này, Mỹ không còn chuyên gia nào về Trung Quốc từ cấp trưởng phòng hoặc hơn tại Bộ Ngoại giao, Hội đồng An ninh Quốc gia hay Lầu Năm Góc. Trước khi Tổng thống lên đường, Nhà Trắng cung cấp cho giới báo chí về chuyến công du châu Á của ông với đầy những ngôn từ khoa trương (như tuyên bố một "trụ cột" của Mỹ ở châu Á) và cách tiếp cận của những người tại Bộ Ngoại giao muốn có quan điểm cứng rắn chưa từng thấy trong chính quyền Obama. Nếu sự thay đổi nhân sự này tạo ra một thay đổi lớn trong chính sách của Nhà Trắng, đó có thể là một diễn biến rất quan trọng làm nảy sinh những vấn đề mới.
Có một điều cũng rất quan trọng là ông Obama không hề thốt ra từ "trụ cột" trong chuyến công du châu Á của mình, và Cố vấn An ninh Quốc gia Tom Donilon chỉ dùng cụm từ "tái cân bằng" thay vì nói "trụ cột". Ngược lại, bà Clinton liên tục nhắc đi nhắc lại rằng chính sách của Mỹ là một "trụ cột ở châu Á".
Các quan chức cấp cao Trung Quốc trong một thời gian dài nhận ra sự khác biệt trong lòng Chính phủ Mỹ như trên.
Độ tin cậy của Mỹ. Một đường lối cứng rắn hơn có thể tạo ra một cách hành xử mang tính xây dựng của Trung Quốc nếu nó thuyết phục được Bắc Kinh rằng Mỹ duy trì được khả năng lãnh đạo tại châu Á về lâu dài và sẵn lòng khuyến khích sự phát triển hiện nay của Trung Quốc nếu việc đó không dẫn tới cách hành xử thách thức vị trí của Mỹ hoặc lợi ích của Mỹ trong khu vực. Rốt cuộc, giới lãnh đạo Trung Quốc rất thực dụng. Họ không muốn "tấn công" Mỹ nếu Mỹ đã có một chiến lược châu Á rõ ràng và liên kết, được tôn trọng và được xem là đáng tin trong khu vực.
Đáng chú ý là ông Obama và bà Clinton phát biểu tại châu Á như thể người châu Á không thấy cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là một sản phẩm "made in America", như thể hệ thống dân chủ của Mỹ gần đây đạt những thành quả ngoạn mục, và như thể quân đội Mỹ có đủ mọi nguồn lực cần thiết để duy trì mọi quyết định huy động lực lượng mà Washington mong muốn trên toàn khu vực Thái Bình Dương rộng lớn. Nhưng không điều nào trong số đó là thực.
Câu hỏi lớn nhất tại châu Á là liệu Mỹ sẽ vươn dậy sau cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay và sớm bước vào thời kỳ tài chính lành mạnh và hùng mạnh trong tương lai hay không. Sự sụp đổ về chính trị liên quan đến việc tăng mức nợ trần hồi tháng 8/2011 gây thiệt hại rất nhiều cho vị trí của Mỹ tại châu Á vì nó phát đi một tín hiệu tiêu cực mạnh về vấn đề này. Khi Tổng thống tuyên bố chiến lược của mình với châu Á hồi tháng 11, "siêu ủy ban" của Quốc hội không đạt được dù chỉ một thỏa thuận nhỏ để trình Quốc hội.
Như vậy, có thể có nhiều mơ tưởng hão huyền trong phát biểu của Tổng thống trong chuyến công du tháng 11. Tổng thống nhấn mạnh mọi quốc gia đều được hoan nghênh tham gia vào sự thịnh vượng của châu Á nếu chấp nhận các chuẩn mực cao của TPP, nhưng thực tế lại là hiện nay chính Trung Quốc, chứ không phải Mỹ, là đối tác thương mại lớn nhất của tất cả các nền kinh tế lớn trong khu vực này và Trung Quốc không hề tuân theo các chuẩn mực của Mỹ. Dường như không quốc gia châu Á nào sẵn lòng làm điều gì đó có hại cho các quan hệ kinh tế với nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc, đặc biệt vào lúc tăng trưởng của Mỹ đang yếu ớt và triển vọng kinh tế châu Âu rất bấp bênh.
Hơn nữa, quân đội Mỹ đang phải đối mặt với sự cắt giảm ngân sách tổng thể hơn 1.000 tỷ USD trong 10 năm tới. Bất chấp những cam đoan gần đây của Tổng thống Mỹ, hầu hết các quốc gia châu Á tự hỏi liệu điều này có ảnh hưởng tới các năng lực quân sự của Mỹ - và khả năng Mỹ sử dụng các năng lực ấy - ở châu Á hay không. Trong khi đó, quân đội Trung Quốc, yếu hơn nhiều so với Mỹ, dường như đang chuẩn bị được hưởng quyết định tăng ngân sách thường niên hai con số trong những năm tới.
Tóm lại, một nhân tố cực kỳ quan trọng định hình vai trò của Mỹ trong tương lai tại châu Á sẽ là nước Mỹ chỉnh đốn lại nền kinh tế của mình tốt tới mức nào và sẽ chứng tỏ như thế nào để cho thế giới thấy hệ thống Mỹ có thể đứng dậy sau các vấn đề nghiêm trọng trong nước để trở nên hùng mạnh hơn nhiều so với trước.
Hành trình của Trung Quốc. Cũng có một vấn đề đối với triển vọng của chính Trung Quốc. Có một ấn tượng khi thảo luận về vai trò quốc tế của Bắc Kinh, đó là đà tăng trưởng của họ là không thể ngừng lại và hệ thống của họ dựa trên nền tảng rất vững chắc trong nước.
Bắc Kinh nói rõ rằng họ phải thay đổi mô hình phát triển của mình, bởi mô hình từng đạt thành công trong vài thập kỷ gần đây đã lỗi thời và giờ đang ngày càng gây ra nhiều hậu quả gây bất ổn về kinh tế và xã hội - như sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn, các vấn đề về sản xuất và an toàn thực phẩm, tham nhũng gia tăng, môi trường xuống cấp thảm họa, giảm tái đầu tư, nhiều người cảm thấy hệ thống trở nên không công bằng... Nhưng có một số bằng chứng để tin tưởng rằng các quyết định chính trị cứng rắn hơn - những quyết định sẽ thách thức các lợi ích của các tập đoàn và giới lãnh đạo địa phương quyền lực - sẽ được đưa ra trong thời gian chuyển giao thế hệ lãnh đạo chính trị ở Bắc Kinh.
Thực vậy, bản chất kéo dài của quá trình chuyển giao cho thấy sự bi quan đốivới các cuộc cải cách lớn trong nước trước năm 2014. Nhưng sự ổn định chính trị của Trung Quốc không thể được đảm bảo nếu không có những thay đổi trong hệ thống chính trị vốn rất khó khăn - có thể là quá khó - để thực hiện. Dù Trung Quốc sẽ trải qua rối loạn chính trị hay chứng kiến một sự đứt quãng trong đà tăng trưởng kinh tế, thì nhận thức của cả châu Á Thái Bình Dương sẽ thay đổi theo hướng có thể dễ dàng ảnh hưởng tới thái độ của họ đối với vai trò của Trung Quốc và sự cân bằng Mỹ - Trung trong khu vực.

Một trụ cột quá xa vời?
Tuyên bố về trụ cột chiến lược của Mỹ ở châu Á đưa ra hồi tháng 11 vừa qua rõ ràng là nhằm tạo nhiềm tin vào vai trò lãnh đạo của Mỹ trong khu vực này trong tương lai và tôn trọng khả năng Washington "soạn lại" bản nhạc ngoại giao rất ấn tượng này. Nhiều người ở châu Á lo lắng về sự suy yếu của Mỹ. Và ông Obama đã đem đến sự lạc quan, các nguyên tắc, sự quyết tâm và vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Chiến lược này có những lợi ích tiềm năng rất lớn, nhưng nó không hẳn là một cây kèn trumpet như Tổng thống và Ngoại trưởng Clinton nói đến. Quan trọng hơn, Mỹ sẽ không có nguồn lực và khả năng để thực hiện toàn bộ các lời hứa của Tổng thống, trừ phi họ giải quyết được các vấn đề tài chính trong nước và các vấn đề chính trị liên quan một cách hiệu quả hơn những gì họ đã làm được trước đây. Với Mỹ, việc lập lại trật tự trong ngôi nhà của mình là một điều kiện cần thiết để đạt thành công trong một chiến lược châu Á mới. Bên cạnh đó, Trung Quốc có thể đáp lại một cách ngày càng thách thức.
Hơn nữa, hầu hết các nước châu Á quyết tâm tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế và thương mại với Trung Quốc ngay cả khi họ lo lắng rằng Bắc Kinh sẽ dùng kinh tế làm đòn bẩy để đạt lợi thế về ngoại giao và an ninh. Vì vậy, trong khi họ muốn Mỹ ngăn cản Trung Quốc chiếm ưu thế so với các nước khác trong khu vực, nhưng không nước nào muốn thấy quan hệ Mỹ - Trung trở nên căng thẳng, bởi điều đó sẽ tạo ra sức ép đối với bất kỳ ai phải chọn một trong hai.
Thay vì thế, họ muốn duy trì các quan hệ cân bằng hiệu quả với cả Trung Quốc và Mỹ, và hưởng lợi từ cả sự hợp tác và cạnh tranh giữa hai gã khổng lồ này trong khu vực. Quan điểm cho rằng Mỹ sẽ quyết định kết quả chính trong khu vực vì các nước ở đó sẽ hoan nghênh vai trò lãnh đạo của Mỹ là hoàn toàn chưa hiểu đúng những tính toán phức tạp này.
Mỹ đáp lại lời khẩn nài từ các bạn hữu và đồng minh ở châu Á bằng cách hành động chủ yếu về mặt ngoại giao và an ninh trong năm 2011. Điều đó tạo ra nguy cơ một số nước có thể lôi kéo Mỹ vào các tranh chấp lãnh thổ của mình với Trung Quốc, một tình thế mà Washington rất thận trọng để tránh xảy ra trong quá khứ.
Về cơ bản, cách tiếp cận rộng này gây nguy cơ dài hạn là châu Á sẽ ngày càng trở thành một trung tâm đắt giá đối với Mỹ (vì an ninh rất tốn kém), trong khi khu vực này tiếp tục là một trung tâm sinh lời ngày càng lớn đối với Trung Quốc (vì các thỏa thuận kinh tế rộng lớn). Trong hoàn cảnh khó khăn tài chính, đây sẽ không phải là một hành trình tốt.
Trụ cột châu Á của chính quyền Obama sẽ thiết lập một cách tiếp cận cân bằng hơn về kinh tế, ngoại giao và an ninh. Việc phê chuẩn Thỏa thuận Tự do Thương mại (FTA) Mỹ - Hàn Quốc gần đây và các nỗ lực tạo ra TPP là những bước rất quan trọng theo hướng này. Nhưng chiến lược châu Á hội nhập mới này có nguy cơ quá đà khi tạo ra những kỳ vọng mà Washington sẽ không thể đạt được, và khi nó nuôi dưỡng những mối hoài nghi ở Trung Quốc có thể dẫn tới một quan hệ Mỹ - Trung "nóng" hơn.
Vì vậy, các quan chức Mỹ rất cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các phát ngôn của mình để tránh gây mất uy tín và tạo ra những căng thẳng không cần thiết khi họ bổ sung các chi tiết cho chiến lược Mỹ. Trong giai đoạn quan trọng sắp tới với Triều Tiên chẳng hạn, sự hợp tác và thông tin liên lạc Mỹ - Trung có thể cực kỳ quan trọng. Trong chừng mực phát biểu của Mỹ đang nuôi dưỡng sự không tin cậy ở Bắc Kinh, sẽ khó có được sự hợp tác trong vấn đề Triều Tiên.
Vì tiến bộ lớn trong quan hệ Mỹ - Trung ít khả năng đạt được trong những năm tới vì cuộc bầu cử/chuyển giao quyền lực diễn ra ở hai nước, Mỹ không nên xem nhẹ tầm quan trọng của việc củng cố quan hệ với Bắc Kinh như một phần của thành công trong mọi chiến lược khu vực và toàn cầu. Đến giờ vẫn còn quá sớm để nói liệu chuyến công du tháng 11 của Tổng thống Obama có đặt nền tảng cho một chiến lược cân bằng hơn và bền vững hơn thực sự tại châu Á hay không.

No comments:

Post a Comment