TS.LS. Lưu Nguyễn Đạt
1. Đồng Mỹ Kim Tiền Tệ Quốc Tế
Ngay trong khi bùng nổ Đệ Nhị Thế Chiến, vào mấy tuần đầu tháng Bảy năm 1944, đại diện của 44 quốc gia đồng minh nhóm họp tại Mount Washington Hotel, Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ, để thảo luận và ký kết Thoả Ước Bretton Woods, [1] với những chi tiết sau đây:
- Thành lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế [International Monetary Fund/IMF] và Ngân Hàng Quốc Tế Tái Thiết và Phát Triển [International Bank for Reconstruction and Development/IBRD] nay trở thành một phân bộ của Ngân Hàng Thế Giới [the World Bank Group].
- Quy định Mỹ kim là tiền tệ quốc tế trong chính sách coi tiền tệ này là đơn vị căn bản cho tỷ lệ hối đoái giữa các quốc gia đồng minh đem so sánh với đồng Mỹ Kim trong mọi sinh hoạt tài chính, đồng thời cho phép Quỹ IMF bù tiền cho quốc gia nào tạm thời khiếm hụt tài chính.
- Trong giai đoạn này, Mỹ kim dựa trên sự bảo chứng của vàng, với ý nghĩa là bất cứ ai cầm Mỹ kim đến ngân hàng Hoa Kỳ đều có quyền yêu cầu ngân hàng trả lại họ trị giá hiện kim bằng vàng.
- Vậy, căn cứ vào Thoả Ước Bretton Woods, tiền Mỹ kim có giá trị như vàng [“good as gold”] và trong những năm tiếp cận, để ổn định tình hình kinh tế tài chính thời Thế Chiến, một lượng [ounce/oz] vàng trị giá đúng 35 Mỹ kim [thay vì trên dưới 1,500 Mỹ kim trong năm 2011].
2. Đồng Mỹ Kim Pháp Định [Fiat Currency]
- Tới ngày 15 tháng Tám năm 1971, Tổng Thống Richard Nixon quyết định chấm dứt chế độ kim bản vị của đồng Mỹ kim [chuyển hoán ra vàng] và từ đó, Mỹ Kim trở thành tiện tệ pháp định [Fiat currency],[2] mà giá trị được ấn định bằng luật pháp hay sắc luật, căn cứ vào nhu cầu của hệ thống tài chính và ngân khố quốc gia. Kể từ giai đoạn này, đồng Euro và các tiền tệ khác trên thế giới lần lượt trở thành tiền pháp định hay “fiat currencies”.
- Dù Hoa Thịnh Đốn [Chính Phủ Liên Bang Hoa Kỳ] có lúc e ngại số cầu về tiền Mỹ kim sẽ giảm vì tiền tệ này không còn dựa trên sự bảo chứng của vàng [kim bản vị], nhưng thực tế đã cho thấy đồng Mỹ kim “giấy” vẫn được tin cậy. Thật thế, giá trị của đồng Mỹ kim, nay dựa trên tín dụng, vẫn giữ giá cao nhờ có sự tin nhiệm của công chúng và sự khan hiếm của tiền tệ đó. Khi có nhu cầu tiêu thụ hay dự trữ, giá tiện tệ liên hệ sẽ gia tăng.
- Ngoài ra, giá trị thực sự của tiện tệ lưu hành vẫn có thể tính được theo tỷ lệ giữa tổng số nợ toàn quốc trên tổng lượng sản phẩm và dịch vụ toàn quốc (Debt-to-GDP ratio). Theo tài liệu của Tình Báo Hoa Kỳ, tỷ lệ đó trong năm 2010 là 53.5%.[3]
3. Hệ Thống “Petrodollar “ Liên Kết với Mỹ Kim Trở Thành Trữ Kim Quốc Tế [International Reserve Currency]
Hệ thống dầu thô lượng giá bằng Mỹ kim [Petrodollar system] là diệu kế của chính thể Nixon-Kissinger về mặt kinh tế và ngoại giao.[4] Để đẩy mạnh số cầu Mỹ kim, Hoa Thịnh Đốn yêu cầu Saudi Arabia và sau đó các quốc gia sản xuất dầu thô thuộc Tổ chức OPEC[5] lượng giá dầu bằng Mỹ kim. Các thành viên OPEC còn có cơ hội dùng số tiền thu nhập để đầu tư vào việc mua công khố phiếu của Hoa Kỳ. Ngược lại, Hoa Kỳ sẽ trợ giúp kỹ thuật và bảo đảm an ninh cho các quốc gia này.
Cái lợi của Hoa Kỳ là, qua hệ thống “petrodollar”, các quốc gia tiêu thụ dầu thô trên thế giới phải mua Mỹ kim làm trữ kim để trả tiền dầu mua của các quốc gia thuộc Tổ chức OPEC. Dầu thô và Mỹ kim trở thành nhu cầu quốc tế mà các quốc gia tiêu thụ phải chấp nhận vì không có cách lựa chọn nào khác.
Chúng ta đã thấy tiền Mỹ kim được “quốc tế hoá” qua Thoả Ước Bretton Woods, năm 1944. Và từ thập niên 1970 tiền Mỹ kim trở thành trữ kim quốc tế qua hệ thống “petrodollar”, nhờ đó làm tăng giá trị hối đoái của đồng Mỹ kim.
Quan trọng hơn cả, khi Mỹ kim trở thành trữ kim quốc tế, Hoa Kỳ chiếm đoạt được cái thế độc nhất:
- thao túng in tiền tệ một cách rộng rãi để trả nợ, thanh toán các chi phí căn bản như mua dầu thô và tài trợ cho các dự án phát triển, kỹ thuật, quân sự;
- mà không cần ấn định giới hạn;
- miễn các quốc gia trong hệ thống mậu dịch nhu yếu phẩm vẫn tín nhiệm;
- và chưa có ai cạnh tranh về mặt hối đoái quốc tế.
Cần nhấn mạnh rằng hệ thống “petrodollar” liên kết với Mỹ kim trong thế trữ kim quốc tế cần phải đi song song với chế độ bất quy định tiền tệ [currency deregulation] [6] khiến hối đoái thả nổi trong các mậu dịch quốc tế có trao đổi ngoại tệ. Cả ba khía cạnh kinh tế tài chính này đã tạo dựng hiện tượng “Dollar Hegemony” [“Mỹ kim bá chủ”] [7] song song với thế lực bá chủ quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới cuối thé kỷ 20.
4. Sự Lung Lay của Hệ Thống “Petrodollar “ và Tình Trạng Bất Trắc của Trữ Kim Quốc Tế
Ngay trong năm 2000, Saddam Hussein đã trở cờ, tuyên bố bải bỏ hệ thông “petrodollar” để thay thế cách lượng giá dầu thô của Iraq bằng tiền Euro. Có lẽ đó là lý do chính hay giọt nước [tiền tệ] cuối cùng khiến Tổng Thống George W. Bush xua quân đánh chiếm Iraq trong năm 2003. Ngay sau đó, số lượng dâu thô sản xuất từ Iraq đã giã từ hệ thống “petro-Euro” để về lại hệ thống “petrodollar” như cũ.[8].
Ngoài ra, kể từ năm 2005, các quốc gia không mấy thân thiện với Hoa Kỳ như Iran, Venezuela, Syria và Bắc Cao Ly đã liên tiếp doạ
dẫm và tìm cách ra khỏi hệ thông “petrodollar” trên. Có lẽ những cuộc “nổi dậy” tại Trung Đông [Arab Spring--trong nội dung này có nghĩa là "Nổi Dậy...", xin đừng quen tay dịch là “Mùa uân Ả Rập” SIC!] có phần nào liên quan tới phản ứng bất trắc của hệ thống “petrodollar” từ đầu thế kỷ 21… Libya và Syria là hai ngọn lửa dầu thô đang bùng cháy, làm sáng tỏ canh bài tiền tệ thế giới này.
Riêng đối với Libya, Gaddafi bị truất phế, không những ông ta là một bạo chúa phản dân, hại nước, ông ta còn là một kẻ đối nghịch trơ tráo, lì lợm của Hoa Kỳ khi mưu toan nhóm họp các lãnh tụ Phi Châu, Hồi giáo để dự thảo về việc đề nghị sử dụng loại tiền tệ bản vị vàng [Gold Dinar Coins] để làm trữ kim đổi lấy dầu thô. Hành động như vậy sẽ làm thiệt hại tới hệ thống “petrodollar” và khi dân chúng nổi dậy tại Libya, qua sự lây biến của cách mạng hoa nhài, tức khắc NATO và Hoà Kỳ ra tay oanh kích chế độ Gaddafi, tiếp viện đội quân ly khai và bảo vệ dân chúng nổi dậy. Thâm tâm Hoa Kỳ vẫn là nhằm bảo vệ hệ thống “petrodollar” đang gặp nguy biến trên bãi sa mạc Libya. Chắc chắn dự án tiền đồng “Gold Dinar Coins” đã tung toé theo chân tỵ nạn của bại “thượng tá” Colonel Gaddafi, và như vậy sẽ không có cơ hội phá quấy hệ thống “petrodollar”, dù hệ thống tiền tệ này đang sứt mẻ vì phải va chạm với thời cuộc tráo trở. [9]
Trung Hoa nếu không biết điều cũng có thể bị cháy lây trong cơn lửa tiền tệ và nhu yếu phẩm mỗi lúc mỗi gay go. Dù sao chăng nữa, kể từ năm 2010, nước Nga đã lộ liễu “trả đũa” Hoa Kỳ bằng cách bán dầu cặn cho Trung Quốc mà đổi lấy tiền Nga kim [rubles]. [10]
5. Xác Định và Phân Loại Trữ Kim Trong Canh Bạc Tài Chính Mậu Dịch Quốc Tế
Một số kinh tế gia cho rằng thông thường thì chỉ có một loại tiền tệ duy nhất được dùng thành tiền tệ dự trữ quốc tế [international reserve currency] căn cứ vào sự hữu ích của thế liên kết ngoại vận [network externalities] [11] — càng đông người dùng càng tốt [như điện thoại, điện thư, điện báo và các mạng lưới liên kết xã hội (Online social networks)]. Hiệu lực của thế liên kết ngoại vận xuất phát từ [a] sự thông dụng thực tế, [b] giá trị nội tại, cập nhật của phương tiện/công cụ dịch vụ, [c] và sự tín nhiệm, ưa chuộng của người sử dụng.
Dù muốn, dù không, đa số các quốc gia trên thế giới tới giờ phút này vẫn ưa chuộng, tin cậy vào thực chất ổn định, thông dụng của Mỹ kim và Công khố phiếu Hoa Kỳ.
Bản tường trình của Bộ Ngân Khố/Tài Chính Hoa Kỳ trong năm 2008 dẫn thượng và sơ đồ liên hệ cho thấy đồng Mỹ kim dùng làm trữ kim quốc tế đã bắt đầu suy thoái, nhất là trong thập niên cuối của thế kỷ 20 . Tuy nhiên cho tới năm 2009, đồng Mỹ kim vẫn giữ mức độ từ 60% tới 70% tổng số tiền tệ dự trữ tại các ngân hàng trung ương quốc tế, trong khi đồng Euro thì ở mức từ 20% tới 30%, còn Anh kim [Sterling] và Nhật kim [Yen] chỉ giành được vài phần trăm trong quỹ dự trữ quốc tế.
5.1. Như đã trình bầy trước đây, đồng Mỹ kim đã trở thành tiền tệ bá chủ [Dollar hegemony] nhờ vào cái thế lịch sử tiền tệ quốc tế do Thoả Ước Bretton Woods và cái thế ngoại giao quân sự của hệ thống “petro dollar”. Ngoài ra, về mặt kỹ thuật tài chính, muốn thực hiện và duy trì ưu thế cao của tiền tệ dự trữ quốc tế, đồng Mỹ kim phải hội đủ một số tiêu chuẩn cần và đủ như sau:
- tầm cỡ khối kinh tế trong nước khả quan;
- mức quan trọng của mậu dịch quốc tế;
- tầm cỡ, chiều sâu và mức độ cởi mở, trong sáng của khối tài chính;
- khả năng chuyển hoán của tiền tệ;
- mức độ ổn định của tiền tệ;
- luật lệ quốc nội và chính sách tiền tệ minh bạch.
Đặc biệt Nhật Bản, Trung Hoa, và cả Việt Nam, vì đã dự trữ nhiều Mỹ kim và Ngân Khố phiếu của Hoa Kỳ, hoặc kết cọc tiền tệ của họ [peg currency] vào đồng Mỹ kim, nên vì quyền lợi chung, các quốc gia này vẫn phải giữ số tiền tệ dự trữ hay kết cọc bằng Mỹ kim ở mức độ cần thiết để khỏi mất giá tiển tệ đầu tư liên hệ.
5.2. Tiền Euro là trữ kim quốc tế mạnh thứ nhì nhờ vào tầm cỡ kinh tế của cả khu Âu [Eurozone] và khả năng chuyển hoán của thị trường Châu Âu cũng ngang với thị trường Hoa Kỳ. Cần nhắc thêm là đồng Euro ra mắt công chúng ngày 1 January 1999 đã đúc kết thế lực của hai loại tiền tệ dẫn đầu tại Châu Âu lúc đó là Đồng Deutsche Mark của Đức và đồng Franc của Pháp. Nền kinh tế thịnh vượng của nước Đức thống nhất đem thêm bảo đảm cho đồng Euro ngày nay.
Nếu Denmark & Nước Anh [UK] gia nhập thêm vào khu Eurozone thì đồng Euro sẽ thịnh vượng hơn, có triển vọng cạnh tranh ngang ngửa với đồng Mỹ kim.
Tuy nhiên, lý do khiến đồng Euro vẫn không vươn lên cao như sự mong muốn của khu Eurozone là vì đồng Euro vẫn chưa đủ tin cậy [confidence and credibility], khi các quốc gia thành viên Châu Âu thuộc nhóm PIIGS [Portugal, Italy, Ireland, Greece & Spain] mấp mé phá sản.[12]
5.3. Còn Nước Nga, khi bán dầu cặn và các hàng hoá khác cho các quốc gia thuộc khu vực Châu Âu cũng định giá các nhu yếu phẩm đó bằng đồng Euro, để tách khỏi hệ thống “petrodollar” và thế lực của đồng Mỹ kim. Nhưng khi cung cấp dầu cho Trung Hoa thì lại tính thành Nga kim [rubles] như đã trình bầy trước đây.
Chắc cũng cần nói thêm là Trung Hoa, Nga, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Venezuela gần đây đã quyết định thanh toán ngân khỏan mậu dịch và đâu tư lẫn nhau bằng tiền tệ riêng của họ, ít ra trong lúc lâm thời cũng hạn chế việc sử dụng trữ kim quốc tế và gián tiếp giảm bớt áp lực bá chủ của đồng Mỹ kim.
5.4. Vậy những loại tiền tệ như Anh kim, Nhật kim [Yen], Đồng Franc suisse [Thụy sĩ], Úc kim v.v. chỉ là những thứ tiền tệ biên tế, không mấy đáng kể trong sinh hoạt dự trự hối đoái. Tuy nhiên, đồng CAD [Canadian dollar -- tiền Gia Nã Đại] tuy cỡ nhỏ, những vẫn được coi là loại tiền tệ mẫu mực [benchmark currency], ổn định, dễ chuyển hoán và khá thông dụng tại khu hải đảo Caribbean, Nam và Trung Mỹ.
5.5. Còn một loại tiền tệ dự trữ quốc tế nữa đáng để ý tới là thứ tiền giấy do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF sáng tạo, gọi là Special Drawing Rights [SDR], mà giá trị lược định [valuation] được chiết tính hằng ngày bằng cách ghép tỷ lệ hối đoái tổng hợp của các đồng Mỹ kim, Euro, Nhật kim [Yen] và Anh kim [Sterling].
Trung Quốc ủng hộ tiền SDR và hứa sẽ mua loại tiền tệ này để hưởng thêm quyền quản trị tại Quỹ IMF.
Đặc biệt là trong tháng February 2011, IMF, dưới quyền điều hành của Giám Đốc Dominique Strauss-Kahn [DSK], đã chính thức đưa thông cáo đề nghị dùng SDR làm loại trữ kim quốc tế mới để ổn định vận mệnh mậu dịch thế giới. Thông cáo của IMF rõ rệt nhằm lật đổ chế độ “petrodollar” lẫn thế bá chủ của đồng Mỹ kim trên thế giới. Ngoài ra IMF còn sáng chế một loại phiếu nợ [bond] tính thành SDR, nhằm hạ bệ luôn công khố phiếu Hoa Kỳ.
Hậu qua gần như trực tiếp và rõ rệt của cuộc khai chiến tiền tệ này là áp lực tống xuất Dominique Strauss-Kahn ra khỏi vị trí Giám Đốc IMF. Câu chuyện cưỡng bức dục vọng [sex attack] và toan hiếp dâm [attempted rape] nữ nhân viên hầu phòng khách sạn Manhattan tại New York chỉ là cái cớ pháp lý bề nổi để băng hoạ tên “dâm đãng” DSK, vốn là một thành viên đảng Xã hội Pháp và một đại gia vương giả, nhiều tì tích xâm phạp tiết hạnh nữ giới trong quá khứ công, cũng như tư. Chủ đích của Hoa Kỳ có lẽ vẫn là gạt bỏ tai ương DSK và dằn mặt IMF bớt cái tham vọng ngông cuồng bá chủ tiền tệ quốc tế.
6. Để Tạm Kết: Tương Lai Bá Chủ Tiền Tệ
Đến giờ phút này Đồng Mỹ kim vẫn vứng vàng dẫn đầu [gần 70% tổng số dự trữ] trong canh bạc đầu tư hay liên kết tiền tệ mậu dịch quốc tế trên vì thực sự chưa thấy có “đấu thủ” nào đủ tầm vóc cạnh tranh đồng Mỹ kim.
Tuy nhiên nếu đồng Mỹ kim muốn củng cố và duy trì vị thế “bá chủ tiền tệ” trên thế giới trong vài thập niên tới, Hoa Kỳ phải tìm cách nhanh chóng giảm thiểu khoản nợ toàn quốc kếch sù, nay lên tới hơn 14 ngàn tỷ Mỹ kim [14 trillion US dollars], trong đó có hơn một ngàn tỷ Mỹ kim [ 1trillion] nợ Trung Quốc, và tạo dựng lại một nền kinh tế thịnh vượng tự duy, phát động sinh khí và năng lực sáng tạo mới mẻ, trong sáng, khả tín.
Bằng không, nội giữa thế kỷ 21, thế giới sẽ khai phát một hiện tượng tam đầu chế [triumvirate][13] hay “tam đa” [The three extremes], với thế lực kinh tế tài chính phân thành ba “đầu nậu” ngang ngửa 33% mỗi vai vế: Hoa Kỳ, Châu Âu và Trung Quốc.
Canh bạc kinh tế tài chính lúc đó thêm gian lận và nặng mùi vị “xập xám chướng” ma phiệt. “Faites vos jeux. Rien ne va plus”.[14] Mời Quý vị đặt tiền. Không còn xoá bài đánh lại được nữa. Được hoặc thua hết vốn thế thôi.
Cuối cùng còn lại trò chơi Ru-lét Nga [15] – viên đạn chót cho định mệnh đỏ đen.
TS.LS. Lưu Nguyễn Đạt
© www.Vietthuc.org
CHÚ THÍCH
[1] “Bretton Woods Agreement”, Addison Wiggin, The Daily Reckoning, November 29th, 2006; “Bretton Woods Convention Reorganizes World Economy”, The Econ Review, Benjamin J. Cohen, “Bretton Woods System”
[2] Fiat money is money that has value only because of government regulation or law. The term derives from the Latin fiat, meaning “let it be done”, as such money is established by government decree. Xin tham khảo: HOW THE FIAT MONEY IS BEING DEFENDED, 2003 J. N. Tlaga; The Nixon Shock Heard ‘Round the World Lewis E. Lehrman – The Wall Street Journal, Monday, August 15, 2011
[3] https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/us.html — CIA World Factbook, the 2010 debt-to-GDP ratio in the US was 53.5%. Trong khi IMF lại đưa ra tỷ lệ 92.7%, như trong bản so sánh dưới đây.
Trung Quốc chỉ công bố số nợ công là 19.12% GDP, bằng một phần mười [10%] số nợ thực sự là gần 200% GDP. Như vậy, trên thực tế, Trung Quốc nợ gấp đôi Hoa Kỳ [96% GDP-2011] và gần bằng Nhật Bản [225% GDP-2010]. Xem bản so sánh dưới đây:
Rank | Country | % of GDP (CIA and Eurostat) | Date | % of GDP (IMF) | Date | Continent |
1 | Japan | 225.8 | 2010 est. | 225.8 | 2010 | Asia |
37 | United States | 58.9 | 2010 est. | 92.7 | 2010 | North America |
111 | China | 17.5 | 2010 est. | 19.1 | 2010 | Asia |
[4] “America’s Petrodollar System: A Timeline of the Rise and Fall of the U.S. Dollar”, Jerry RobinsonFTMDaily.com on May 17, 2011
[5] OPEC /Organization of Petroleum Exporting Countries/ là Tổ chức thành lập năm 1960 của các quốc sản xuất dầu cặn để đồng thuận định giá dầu cặn căn cứ vào quyết định cung cấp số lượng cần thiết liên hệ [giảm mức sản xuất cho khan hiếm để tăng giá; cung cấp đủ để giữ hay hạ giá]. Những quốc gia thành viên của OPEC gồm có Algeria, Angola, Ecuador, Indonesia, Iran, Iraq, Kuwait, Libya, Nigeria, Qatar, Saudi Arabia, United Arab Emirates, Venezuela
[6] What does deregulation of Chinese Yuan mean? DEEPAK in deregulation,USA,china,yuan, inflation,what is inflation,effects of inflation,learning to live with inflation
[7] Dollar Hegemony and the Rise of China, Michael Hudson
[8] “Petrodollar Warfare: Dollars, Euros and the Upcoming Iranian Oil Bourse”, William Clark, Media Monitors Network, Archived Aug 8 2005
[9] “Libya Attacked Over Gaddafi’s Gold Dinar”, GeoffTalk
[10] “Russia to trade oil in rubles – a new threat to the dollar”, ATS, 5.206; “China-Russia currency agreement further threatens U.S. dollar”, International Business Times, Nov. 24, 2010.
[11] Network Externalities, Competition, and Compatibility, Katz, Michael LShapiro, Carl
[12] “Can Europe Be Saved?Time is running out to rescue the economies of Portugal, Ireland, Italy, Greece, and Spain”.Nouriel Roubini and Stephen Mihm, Slate, May 16, 2011.
[13] “Economic Triumvirate”, Robert J. Samuelson, The Daily Beast, Dec 19, 2008
[14] “Faites vos jeux. Rien ne va plus” là câu mời mọc đánh bài, bỏ tiền đỏ đen… tại các sòng bài [Casino] bên Pháp, Monaco.
[15] Roulette russe /un jeu de hasard potentiellement létal/ là một thách đố [xuất xứ từ bên Nga?] dùng súng lục quay /rouleau/ 6 viên, nạp một viên đạn, bỏ 5 chỗ không có đạn, quay ổ đạn, kề nòng súng vào thái dương, rồi bóp cò. May thì sống. Rủi thì tự sát. Trò chơi Roulette russe là một thách đố nghiệt ngã, tuyệt vọng, vì tiền, tình, thế lực, bất cần đời. Một canh bạc tự sát.
No comments:
Post a Comment