Monday, October 24, 2011

* Trà xanh và sức khỏe


Nguyễn Văn Tuấn


Uống trà xanh có tác dụng tích cực tới trí não.


Trà là một thức uống phổ biến vào hàng thứ hai trên thế giới (chỉ sau nước uống). Vì mức độ phổ biến của trà trong dân số, cho nên các nhà nghiên cứu y khoa rất quan tâm đến tiềm năng phòng chống bệnh tật của trà. Một số nghiên cứu trên động vật cho thấy trà có khả năng chống ung thư và tác dụng tích cực đến tim. Tuy nhiên, các nghiên về mối liên hệ giữa trà và sức khỏe ở con người vẫn còn rất ít và kết quả vẫn chưa rõ ràng hay dứt khoát. Một trong những lí do của tình trạng bất định trong các nghiên cứu trà ở con người là vấn đề thiết kế nghiên cứu, số lượng đối tượng ít, thời gian theo dõi ngắn ... Vì thế cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đủ dữ kiện để đi đến một kết luận đáng tin cậy. Để khắc phục các yếu điểm trên, các nhà nghiên cứu Nhật đã tiến hành một nghiên cứu qui mô ở 40.530 người và theo dõi một thời gian khá dài (trên 10 năm).
Giả thiết căn bản mà các nhà nghiên cứu đặt ra là: nếu trà xanh có tác dụng tích cực đến sức khỏe thì nó có thể làm giảm tỉ lệ tử vong do bệnh ung thư gây và bệnh tim mạch, bởi vì hai bệnh này là hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong trong dân số Nhật.


Công trình nghiên cứu được tiến hành ở quận Miyagi (thuộc vùng Đông Bắc nước Nhật). Khoảng 80% dân số quận Miyagi có truyền thống uống trà. Trong số này, gần phân nửa uống trà ít nhất là 3 tách một ngày. Các nhà nghiên cứu sử dụng một hệ thống thu thập dữ liệu gồm 40 câu hỏi về thói quen, thời lượng, tần số và lượng thức ăn và thức uống mà các đối tượng dùng hàng ngày. Đối với thức uống, họ hỏi đối tượng về dung lượng uống trà xanh, trà đen, và trà ô-long (oolong). Họ theo dõi các đối tượng trong 11 năm để ghi nhận số đối tượng qua đời và nguyên nhân tử vong.


Kết quả nghiên cứu cho thấy ở 19.060 đàn ông, có 13.259 (gần 70%) người uống trà xanh ít nhất là 1 tách mỗi ngày. Ở phụ nữ, có 16.569 (77%) người uống trà xanh ít nhất là 1 tách mỗi ngày (xem bảng số 1 dưới đây).


Bảng 1. Tần số và thói quen uống trà xanh
Tần số uống trà
xanh mỗi ngày
Số lượng đối tượng nghiên cứu; n (%)
Nam
Nữ
Không uống
5801 (30.4%)
4901 (22.8%)
Uống 1-2 tách / ngày
4325 (22.7%)
4478 (20.9%)
Uống 3-4 tách/ngày
3895 (20.4%)
4944 (23.0%)
Uống trên 4 tách/ngày
5039 (26.4%)
7147 (33.3%)
Tổng số
19060
21470


Phát hiện chính của nghiên cứu này có thể tóm lược qua các điểm chính sau đây:
Tử vong. Số liệu về mối liên hệ giữa trà xanh và nguy cơ tử vong được tóm tắt trong Bảng 2 dưới đây (tôi trình bày nguyên số liệu do tác giả cung cấp trong bài báo). Trong thời gian theo dõi (11 năm), các nhà nghiên cứu ghi nhận 2.668 tử vong ở nam giới và 1.541 tử vong ở nữ giới. Tỉ lệ tử vong tính trên 100 năm-người (person-years) ở nam giới là 1,51%, cao hơn khoảng 1,9 lần so với tỉ lệ ở nữ (0,78%).


Phân tích giữa hai nhóm (uống trà xanh và không uống trà xanh) cho thấy ở nam giới, những người uống trà xanh trên 4 tách mỗi ngày có tỉ lệ tử vong thấp hơn nhóm không uống trà xanh khoảng 12% và độ khác biệt này có ý nghĩa thống kê (tỉ số nguy cơ tương đối là 0.88 và khoảng tin cậy 95% là 0.78 – 1.00).


Ở nữ giới, tỉ lệ tử vong trong nhóm uống trà xanh là 0,76% và tỉ lệ này thấp hơn so với nhóm không uống trà xanh (0,83%). Tuy nhiên, chỉ co những người uống trên 5 tácn mỗi ngày thì độ khác bệit mới có ý nghĩa thống kê (tỉ số nguy cơ tương đối là 0.80 và khoảng tin cậy 95% là 0.68 – 0.94)


Bảng 2Tỉ lệ tử vong và tỉ số nguy cơ tương đối theo tần số uống trà xanh (số liệu theo dõi 11 năm)
Chỉ số thống kê
Tần số uống trà xanh mỗi ngày
Không uống
1-2 tách
3-4 tách
>4 tách
NamSố đối tượng
5801
4325
3895
5039
Năm-người
53348
39678
35984
47273
Số tử vong
747
541
584
796
Tỉ số nguy cơ tương đối
1.00
0.94
(0.82 – 1.07)
0.97
(0.85 – 1.10)
0.88
(0.78 – 1.00)
NữSố đối tượng
4901
4478
4944
7147
Năm-người
43779
40738
46137
67238
Số tử vong
362
331
336
512
Tỉ số nguy cơ tương đối
1.00
0.96
(0.81 – 1.15)
0.86
(0.72 – 1.02)
0.80
(0.68 – 0.94)


Chú thích: “Năm-người” ở đây là tạm dịch từ thuật ngữ “Person-years”. Để hiểu khái niệm năm-người, có thể xem một ví dụ 3 đối tượng sau đây: đối tượng A được theo dõi trong vòng 5 năm, đối tượng B được theo dõi trong 10 năm, và đối tượng C 7 năm. Do đó, tổng số năm-người là 5+10+7 = 22. Tỉ số nguy cơ tương đối(relative risk) ở đây có nghĩa là tỉ số giữa hai tỉ lệ tử vong. Chẳng hạn như tỉ số nguy cơ 0.80 (nhóm nữ uống trên 4 tách/ngày) có nghĩa là tỉ lệ tử vong trong nhóm này thấp hơn nhóm không uống trà khoảng 20%. Số trong ngoặc của tỉ số nguy cơ có nghĩa là khoảng tin cậy 95% (confidence interval). Khi khoảng tin cậy 95% hoàn toàn dưới 1 (như 0,68 đến 0,94) hay hoàn toàn trên 1 (như 1,10 đến 1,57) thì mối liên hệ có ý nghĩa thống kê (statistically significant); một khoảng tin cậy 95% dao động từ dưới 1 đến cao hơn 1 (như 0,72 đến 1,02) có nghĩa là mối liên hệ không có ý nghĩa thống kê.


Tuy nhiên, tôi thấy các số liệu ở nam giới có vấn đề, và xu hướng tử vong có thể ngược lại những gì các tác giả này viết trong bài báo. Thật vậy, ở nam giới, những người uống trà xanh có nguy cơ tử vong cao hơn những người không uống trà xanh! Có thể sử dụng các số liệu trong Bảng 2 để làm vài tính toán đơn giản và thấy sự mâu thuẫn của các tác giả bài báo (xem bảng sưới đây). Như có thể thấy, tỉ lệ tử vong trong nhóm không uống trà xanh là 1,40% và trong nhóm uống trà xanh là 1,56%. Như vậy, nguy cơ tử vong trong nhóm uống trà xanhcao hơn 12% so với nhóm không uống trà xanh! Thật ra, có bằng chứng cho thấy nguy cơ tử vong có xu hướng tăng theo tần số uống trà xanh. Chẳng hạn như trong nhóm uống trên 4 tách / ngày, tỉ lệ tử vong cao hơn khoảng 20% so với nhóm không uống trà xanh. Do đó, có thể nói phát biểu của các tác giả về ảnh hưởng của trà xanh ở nhóm nam sai lầm nghiêm trọng.


Bảng 2a. Tỉ lệ tử vong ở nam giới (phân tích lại)
Tần số uống trà xanhSố năm-người (Person-years)Số tử vongTỉ số tử vong trên 100 năm-ngườiTỉ số nguy cơ
Không uống
53348
747
1,40
1,00
Uống 1-2 tách/ngày
39678
541
1,36
0,97
Uống 3-4 tách/ngày
35984
584
1,62
1,16
Uống trên 4 tách/ngày
47273
796
1,68
1,20
Nhóm uống trà xanh
122936
1921
1,56
1,12


Tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư. Do khó khăn trong việc xác định dữ liệu, các nhà nghiên cứu chỉ có thể phân tích tỉ lệ tử vong theo từng nguyên nhân cho 7 năm (chứ không phải 11 năm như tổng số tử vong). Số liệu về tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư được tóm lược trong Bảng 3 dưới đây.


Các số liệu này cho thấy có một xu hướng rõ rệt: uống trà xanh chỉ có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe (hiểu theo nghĩa giảm tỉ lệ tử vong) ở nữ giới, và ngay cả ở nhóm nữ, ảnh hưởng đó chỉ được ghi nhận đối với nguy cơ tử vong vì các bệnh tim mạch.


Bảng 3Tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch và ung thư, và tỉ số nguy cơ tương đối theo tần số uống trà xanh (số liệu theo dõi 7 năm)
Chỉ số thống kê
Tần số uống trà xanh mỗi ngày
Không uống
1-2 tách
3-4 tách
>4 tách
NamSố năm-người
36003
26885
24250
31718
Bệnh tim mạch
149
103
98
131
Bệnh ung thư
179
142
175
243
Tỉ số nguy cơ tương đối – tim mạch
1.00
0.88
(0.68 – 1.14)
0.84
(0.64 – 1.09)
0.78
(0.61 – 1.00)
Tỉ số nguy cơ tương đối – ung thư
1.00
1.02
(0.77 – 1.35)
1.13
(0.86 – 1.48)
1.04
(0.80 – 1.35)
NữSố năm-người
29653
27558
31040
44995
Bệnh tim mạch
112
83
84
132
Bệnh ung thư
77
87
90
141
Tỉ số nguy cơ tương đối – tim mạch
1.00
0.84
(0.63 – 1.12)
0.69
(0.52 – 0.93)
0.69
(0.53 – 0.90)
Tỉ số nguy cơ tương đối – ung thư
1.00
1.27
(0.98 – 1.74)
1.09
(0.79 – 1.49)
1.07
(0.80 – 1.44)


Chú thích: Xem chú thích Bảng 2.
Tuy nhiên, khi phân tích lại các số liệu trên, tôi thấy một lần nữa, các tác giả này đã phát biểu sai. Trong thực tế, các số liệu trên cho thấy vài xu hướng như sau:
Đối với nhóm nam, không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ tử vong vì bệnh tim mạch giữa nhóm uống trà xanh và không uống trà xanh. Nhưng tỉ lệ tử vong vì bệnh ung thư trong nhóm uống trà xanh, tính trung bình, cao hơn khoảng 36% so với nhóm không uống trà xanh! (Xem Bảng 3a).


Bảng 3a. Tỉ lệ tử vong ở nam giới (phân tích lại)
Tần số uống trà xanh
Số năm-người (Person-years)
Tỉ số tử vong trên 100 năm-người
Tỉ số nguy cơ (relative risk)
Tim mạch
Ung thư
Tim mạch
Ung thư
Nam
Không uống
36003
0,41
0,71
1,00
1,00
Uống 1-2 tách/ngày
26885
0,38
0,85
0,93
1,06
Uống 3-4 tách/ngày
24250
0,40
1,09
0,98
1,45
>4 tách/ngày
31718
0,41
1,21
1,00
1,54
Nhóm uống trà xanh
82853
0,40
1,06
0,97
1,36
Nữ
Không uống
29653
0,38
0,26
1,00
1,00
Uống 1-2 tách/ngày
27558
0,30
0,32
0,80
1,22
Uống 3-4 tách/ngày
31040
0,27
0,29
0,72
1,12
>4 tách/ngày
44995
0,29
0,31
0,78
1,21
Nhóm uống trà xanh
103593
0,29
0,31
0,76
1,18


Vài nhận xét
Đây là một nghiên cứu thú vị về tác dụng của trà xanh đối với sức khỏe trong một cộng đồng tương đối lớn và được theo dõi khá lâu để có thể thu thập đủ số liệu cho phân tích. Thế mạnh của nghiên cứu này là một quần thể lớn, tỉ lệ người uống trà xanh khá cao, cho phép các nhà nghiên cứu có thể phân tích theo từng nhóm nhỏ.


Tuy nhiên, nghiên cứu này có quá nhiều khiếm khuyết và sai sót (dù được công bố trên một tập san y học hàng đầu trên thế giới, tức tập san JAMA). Những yếu điểm của nghiên cứu này có thể tóm lược qua vài điểm chính như sau:
  • Lượng trà xanh và thói quen uống trà mà các tác giả phân tích dựa vào sự cung cấp của các đối tượng, mà các nhà nghiên cứu không có cách nào để kiểm tra xem những thông tin đó chính xác cỡ nào. Thông thường các thông tin về lượng uống trà xanh không có độ chính xác cao, nhất là ở các đối tượng cao tuổi. Vì thế, các kết quả của nghiên cứu có thể thiếu tính khách quan.
  • Khoảng 10% đến 14% đối tượng mất liên lạc, cho nên các nhà nghiên cứu không thể phân tích toàn bộ quần thể mà phải dựa vào con số còn liên lạc được. Điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, bởi vì những người mất liên lạc có thể là những người mà sức khỏe không mấy tốt và kết quả phân tích có thể nghiêng về nhóm lành mạnh!
  • Các nhà nghiên cứu tỏ ra mâu thuẫn, thậm chí sai lầm, trong các phát biểu về ảnh hưởng của trà xanh như tôi đã chỉ ra trong phần trên.
Nói tóm lại, nghiên cứu này tuy qui mô nhưng có quá nhiều sai sót, cho nên mối liên hệ giữa trà xanh và sức khỏe vẫn chưa được xác định rõ ràng.


Tài liệu tham khảo:

Kuriyama S, et al. Green tea consumption and mortality due to cardiovascular disease, cancer, and all causes in Japan. JAMA 2006; 296:1255-1265.



No comments:

Post a Comment