Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng. Quan hệ đối tác chiến lược là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có. Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này - Đại sứ Mỹ David Shear
Mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện khá đặc biệt giữa phóng viên Huỳnh Phan và Đại sứ Mỹ David Shear.
Thứ nhất, cuộc trò chuyện được thực hiện trên xe hơi riêng của Đại sứ David Shear, trong chuyến đi Thái Bình ngày 16.12 vừa rồi của ông.
Thứ hai, đây không hẳn là cuộc phỏng vấn, mà là cuộc trò chuyện thoải mái giữa hai người lần đầu làm quen với nhau trong một chuyến đi. Mặc dù, tất nhiên, để có cuộc gặp đó hoàn toàn không phải do sự tình cờ.
Có điều, phóng viên cũng không cần phải mặt mày căng thẳng, với những câu hỏi "hóc búa" chuẩn bị sẵn, mà tiện đâu hỏi đấy, thích gì hỏi nấy. Còn vị đại sứ cũng không cần "thủ thế", "giữ kẽ", với tư cách là một nhà ngoại giao.
Đại sứ David Shear tự giới thiệu: "Trong nhiệm kỳ làm Phó Đại sứ Mỹ ở Kuala- Lumpur (Malaysia), hai vợ chồng tôi đã đi du lịch Việt Nam vào năm 2007. Chúng tôi rất thích Hà Nội, và Việt Nam nói chung. Lúc đó, tôi không hề nghĩ rằng sẽ có ngày mình sẽ quay trở lại Hà Nội với tư cách Đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Tôi nghĩ tôi đã gặp may."
Tôi tò mò không hiểu trải nghiệm về Việt Nam với tư cách một du khách có chút liên quan nào tới việc ông sang đây làm đại sứ không?
Rời Malaysia, tôi trở về Washington làm việc trong ba năm, làm mảng Trung Quốc. Những người ở cấp của tôi bắt đầu tìm chỗ để đi làm đại sứ. Việt Nam chuẩn bị có chỗ trống, và thực sự tôi cũng không hy vọng là mình sẽ được cử sang Việt Nam.
Thế nhưng, vào một ngày đẹp trời, Sếp gọi tôi lên và hỏi tôi có đi Việt Nam không. Ký ức về khoảng thời gian ngắn ngủi đi du lịch Việt Nam đã khiến tôi nghĩ rằng sẽ chẳng có lựa chọn nào tốt hơn. Con người thân thiện, đồ ăn ngon lành, và phong cảnh rất đẹp... Vậy, tại sao lại không đi Việt Nam?
Tôi biết ơn Sếp tôi, và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã ủng hộ sự đề cử của tôi. Bởi một khi Bộ Ngoại giao đề cử, Nhà Trắng và Thượng viện phải phê chuẩn. Vì vậy, tôi cũng phải chờ một thời gian, và chỉ sang đây vào tháng 8 năm nay.
Vợ tôi tìm được một thầy dạy làm đồ gốm ngay gần nhà, thế là suốt ngày bà ấy vui thú với việc nặn lọ gốm.
Anh học tiếng Anh ở đâu?
Tôi tự học. Ngoại ngữ tôi được học ở trường lớp là tiếng Nga.
Anh còn nói tiếng Nga tốt chứ.
Cũng lâu không nói, do ít cơ hội giao tiếp.
Anh đã đến Moscow chưa?
Có, tôi học ở đó gần 2 năm, vào cuối những năm '70. Ông đã đến Moscow chưa?
Chưa. Nghề nghiệp của tôi chủ yếu dính dáng đến Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc và Đông Nam Á. Tôi đến châu Âu chỉ trong những chuyến công tác ngắn.
Có một lần tôi đã đến Berlin để đàm phán với Bắc Triều Tiên. Một cảm giác rất buồn cười khi đàm phán với người Bắc Triều Tiên ở Berlin.
Trước hay sau khi bức tường Berlin sụp đổ?
Tất nhiên là sau. Vào cuối những năm '90.
Người Mỹ muốn nhìn thấy một điều gì đó tương tự như nước Đức ở bán đảo Triều Tiên?
Có thể là vào một ngày nào đó. Nhưng tôi không hy vọng là sớm đâu.
Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Bắc Triều Tiên rất khác so với Đông Đức.
Trước khi sang đây, ông biết gì về Việt Nam? Về thời chiến nhiều hơn, hay thời bình nhiều hơn?
Nhiều người già ở Mỹ nghĩ tới Việt Nam là nghĩ tới cuộc chiến nhiều hơn. Nhưng cách nhìn đó đang thay đổi, do sự thay đổi thế hệ.
Còn tôi thì tìm hiểu cả hai, quá khứ lẫn hiện tại của Việt Nam. Tôi hiểu Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng.
Trước khi sang đây, tôi còn kịp học hai tháng tiếng Việt nữa. Tôi định tháng Một tới sẽ lại tiếp tục học tiếng Việt. Đó là Nghị quyết Năm Mới (New Year Resolution) của tôi. (Cười)
Tôi hy vọng là trước khi hết nhiệm kỳ ở đây, tôi sẽ có thể nói chuyện dễ dàng hơn với người Việt Nam. Chứ không ngớ ngẩn như lần tôi phải điều trần để Thượng Viện phê chuẩn.
Chuyện đó thế nào?
Khi đi dọc hành lang để vào cuộc điều trần trước Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện về việc phê chuẩn tôi làm đại sứ, tôi gặp TNS Jim Webb, người sẽ chủ toạ buổi điều trần đó. Tôi biết ông rất giỏi tiếng Việt, nên quyết định nói một câu tiếng Việt, với hy vọng lấy được thiện cảm của ông. Lúc đó, tôi mới học tiếng Việt được một tuần.
Khi bắt tay ông tôi trịnh trọng nói: "Rất hân hạnh được gặp chị."
Ông nhướn mắt nhìn tôi, rồi nói" Rất hân hạnh được gặp anh chứ."
Ông có cảm thấy thoải mái trong thời gian vừa qua ở Hà Nội không?
Rất thú vị. Tôi có một thời gian biểu rất bận rộn.
Không biết anh đã xem đoạn video khoảng hai phút tôi làm và đưa lên youtube nhiều tuần trước khi tôi sang đây. Trong đó tôi nói rằng một trong những nhiệm vụ của tôi là đại diện cho nước Mỹ trước chính phủ Việt Nam, và một nhiệm vụ khác là đại diện cho nước Mỹ trước nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện được điều đó, tôi phải ra khỏi Hà Nội, tới thăm những tỉnh thành khác.
Ông đã kịp đi những tỉnh thành nào rồi?
Tôi đến Đà Nẵng hai lần, TP Hồ Chí Minh ba lần, Hội An, Bạc Liêu, Sơn La và Ninh Bình. Tôi cố gắng làm sao đến trước khi về, có thể đi đủ hết các tỉnh thành của Việt Nam, để gặp gỡ người dân những nơi đó và có một hiểu biết đầy đủ về đất nước các bạn.
Vậy chuyến đi này cũng để thực hiện điều đó?
Đúng. Nhưng tôi thực hiện với sự thích thú.
Hai nhiệm vụ với chính phủ và nhân dân khác nhau thế nào?
Tôi nghĩ nếu tôi kết hợp tốt giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân, công việc của tôi ở đây sẽ hiệu quả hơn nhiều.
Thế những người ông gặp ở địa phương có thái độ thế nào với ông?
Họ rất thân thiện và mến khách. Tôi luôn cảm thấy dễ chịu khi gặp họ.
Ông có cảm giác tương tự khi gặp các quan chức chính phủ không?
Có chứ. Trong ba năm trở lại đây, quan hệ hai nước đã được cải thiện nhiều. Hai bên đều cảm thấy dễ lĩnh hội quan điểm của nhau hơn, và dễ hợp tác hơn, so với trước đó.
Chúng ta đã nhận ra rằng chúng ta có nhiều lợi ích chung. Và nhiệm vụ của một đại sứ như tôi là giúp làm sao cả hai bên có thể theo đuổi những lợi ích chung đó.
Tôi đã gặp một số quan chức cao cấp trong chính phủ Việt Nam, và các cuộc trao đổi đều diễn ra khá thân thiện. Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi William Burns đã thăm Việt Nam cách đây vài ngày, gặp gỡ với Thủ tướng, Ngoại trưởng và một loạt các quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam. Tôi đánh giá các cuộc gặp đó đều thú vị và hiệu quả.
Tôi nghĩ chúng ta có một tiềm năng rất lớn để phát triển quan hệ song phương. Cả ở cấp độ chính phủ và giữa nhân dân hai nước.
Anh nên nhớ rằng hiện có khoảng 15 ngàn sinh viên Việt Nam đang học tập ở khắp nơi trên đất nước Mỹ. Họ là những vị đại sứ tuyệt vời của Việt Nam trên đất Mỹ. Còn khi trở về nước, họ sẽ có những đóng góp quan trọng giúp Việt Nam trở nên giàu mạnh hơn.
Tôi nhắc tới điều đó để nhấn mạnh rằng đối ngoại nhân dân quan trọng như thế nào.
Quả thực là số sinh viên Việt Nam ở Mỹ bây giờ nhiều hơn so với số sinh viên Việt Nam cử sang Liên Xô học ở thời của tôi. Đó là một chỉ dấu rất quan trọng.
Và cũng dễ hiểu thôi, nền giáo dục đại học của Mỹ hấp dẫn không chỉ với giới trẻ Việt Nam, mà hầu như giới trẻ trên toàn thế giới. Con trai tôi chẳng hạn, vừa tốt nghiệp Đại học Ngoại thương được nửa năm và hiện đang làm Công ty Kiểm toán Delotte, cũng đang chuẩn bị để tìm học bổng sang Mỹ học cao học.
Ở sứ quán chúng tôi có một chuyên gia tư vấn về giáo dục. Hãy bảo cậu ấy đến đó để nhận được những chỉ dẫn và lời khuyên hữu ích cho việc tìm kiếm học bổng ở các trường đại học của Mỹ.
Xin cám ơn ông.
(Xe quay đầu trên đường Giải phóng)
Ồ, tôi biết chỗ ngoặt này để chuyển sang đường cao tốc. Tuần trước, tôi đi Ninh Bình, cũng hướng này.
Tôi đã đến Nhà thờ Phát Diệm. Và sau đó, vào bữa trưa chúng tôi ăn thịt dê, dê núi. Tuyệt vời. Sau đó, chúng tôi đi thuyền vào động Trang An.
Ông có uống rượu không?
Ồ, có. Cũng tuyệt.
Rượu tiết dê?
Ồ, không. Tôi chưa dám uống.
Ông có biết rằng tác giả của cuốn "Một người Mỹ trầm lặng" cũng đã từng nằm trên tháp chuông của của Nhà thờ Phát Diệm không?
Graham Green? Hay nhỉ?
Năm 1993, tôi đã dẫn một nhà văn Mỹ, người đang viết sách tiểu sử về Graham Green (tập 2) đến Nhà thờ Phát Diệm. Ông đòi lên Tháp chuông xem và chụp ảnh vì Graham Green đã từng nằm ở đó.
Đó là thông tin bây giờ tôi mới biết.
Ông thích cuộc sống ở đô thị, hay nông thôn, hơn?
Tôi mong rằng, sau khi nghỉ hưu, tôi sẽ có hai ngôi nhà, một ở thành phố, một ở thôn quê. Tôi sẽ để ý tiết kiệm tiền hơn để thực hiện được ý định đó.
Anh đã tới Thái Bình lần nào chưa?
Rồi. Lần trước, cách đây hơn 3 năm, tôi đã đi theo những người làm dự án về sự tham gia của người dân vào việc điều hành ở thôn xã.
Cách đây hơn 10 năm, ở Thái Bình đã xảy ra bất ổn lớn. Sau đó, cả chính quyền và một tổ chức NGO đã vào cuộc để xây dựng cơ chế dân chủ cơ sở, tức là tổ chức do người dân lập ra tự giải quyết một phần các mối quan hệ trong đời sống cộng đồng.
Kết quả ra sao?
Rất tốt, ít nhất là tốt hơn nhiều so với trước đó. Chính quyền thôn xã cũng thừa nhận rằng công việc của họ cũng đỡ phức tạp đi nhiều.
Ông nói là ông có lên Sơn La. Vậy ông nhìn nhận như thế nào về sự chênh lệch về trình độ phát triển ở đó với dưới này?
Quả thật là tôi có nhận thấy sự chênh lệch đó. Nhưng tôi cũng nhìn thấy cố gắng của Sơn La. Bằng chứng là tôi nhìn thấy rất nhiều xe máy trên đó, và việc canh tác trong những thung lũng ở Sơn La tỏ ra khá có hiệu quả.
Tôi rất muốn quay trở lại Tây Bắc để tìm hiểu thêm, và lưu lại lâu hơn, bởi tôi đã ở Sơn La chỉ có một ngày. Và tôi cũng muốn đến thăm Điện Biên Phủ.
Đúng vậy. Và lần tới, ông nên đi sâu hơn nữa vào vùng núi, nơi ông sẽ nhìn thấy ít xe máy hơn, và cuộc sống của người dân khó khăn hơn nhiều.
Con gái tôi hiện sống và làm việc ở New York. Cô bé sẽ sang Việt Nam chơi vào tháng Một, hay tháng Hai tới. Cô bé muốn đi du lịch Sa Pa. Có lẽ, chúng tôi sẽ đi tàu hoả lên đó, và chơi ở đó khoảng đôi ba ngày. Con gái tôi đã đi cùng chúng tôi trong chuyến du lịch Việt Nam năm 2007.
Kết hợp giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân là triết lý ngoại giao riêng của ông?
Không. Các đại sứ quán của Mỹ trên khắp thế giới đều làm như vậy.
Và đại sứ quán Việt Nam tại Washington, cũng như các lãnh sự quán ở vài bang khác, cũng làm điều tương tự.
Tất nhiên, ở cương vị đại sứ, tôi xuất hiện nhiều hơn trước những người dân Việt Nam, ở những sự kiện khác nhau, như tôi sắp làm trong chuyến đi này.
Nhưng không chỉ có tôi. Mọi nhân viên đại sứ quán đều phải ra ngoài làm nhiệm vụ này ở các sự kiện khác nhau.
Họ có phải xin phép khi phát biểu ở đâu đó không?
Tôi nghĩ là chúng tôi phải được sự cho phép của chính quyền phía Việt Nam để đi thăm một nơi nào đó. Nhưng, theo tôi biết, chúng tôi không cần xin phép khi phát biểu.
Điều mà tôi thấy thú vị là người Việt Nam rất tò mò về mọi khía cạnh trong quan hệ giữa hai nước chúng ta. Và tôi cũng rất thích thú khi hỏi họ về những điều họ suy nghĩ, họ quan tâm. Cứ mỗi lần đi tỉnh trở về, là lại một lần kiến thức của tôi về Việt Nam, về công việc của mình, lại dày dặn thêm.
Người dân thường hỏi ông những gì? Hay loại câu hỏi nào mà ông thường phải trả lời nhất?
Chẳng hạn, khi tôi gặp gỡ những người trẻ tuổi, tôi thường hay phải trả lời về việc làm thế nào để một thanh niên Việt Nam có thể qua Mỹ học, làm cách nào để tìm trường phù hợp, xin được visa, hay kiếm học bổng... Và chúng tôi cố gắng đáp ứng nguyện vọng của họ thông qua website của sứ quán, thông qua Văn phòng Education USA ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh.
Nhưng tôi nghĩ đó là mối quan tâm của giới trẻ ở đô thị, nơi có điều kiện tiếp cận giáo dục tốt hơn. Còn ở nông thôn, chắc giới trẻ quan tâm đến chuyện khác nhiều hơn, bởi chuyện đi học ở Mỹ với họ, theo tôi nghĩ, có vẻ hơi xa xỉ?
Ngay cả ở Bạc Liêu, tôi cũng gặp những thanh niên muốn sang Mỹ học. Tất nhiên, ở đó họ cũng quan tâm nhiều tới việc thu hút đầu tư từ Mỹ đến địa phương của họ.
Một mối quan tâm nữa của những người Việt tôi gặp là làm sao cải thiện hệ thống giáo dục của Việt Nam. Vì vậy, một trong những ưu tiên của tôi là tìm cách cải thiện hạ tầng giáo dục, và cả hạ tầng y tế, ở đây.
Tôi tò mò, không hiểu người dân thường ở Việt Nam mà ông gặp có quan tâm tới mối quan hệ đối tác chiến lược mà hai chính phủ chúng ta đang hướng tới không?
Có chứ, họ cũng rất quan tâm. Tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton vào tháng 10 năm ngoái tại Hà Nội, rằng hai nước mong muốn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, chính là một cách báo hiệu tốt nhất cho thế giới về quan hệ ngày càng được cải thiện giữa hai nước. Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng.
Quan hệ đối tác chiến lược có một nội hàm rất rộng, rất toàn diện, và là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có.
Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này, và tôi luôn nhấn mạnh tới những lợi ích chung của Việt Nam và Mỹ.
Tôi muốn khẳng định lại là những người Việt Nam bình thường khi nói chuyện với ông hỏi ông về quan hệ đó, chứ không phải ông chủ động nói với họ. Bởi dường như vế đầu tiên thực sự có ý nghĩa hơn?
Đúng, họ luôn hỏi tôi về mối quan hệ đối tác chiến lược. Và, anh nói đúng, điều đó thực sự có ý nghĩa quan trọng.
Tôi có đọc thông cáo báo chí của Đại sứ quán Mỹ liên quan đến chuyến đi của Thứ trưởng William Burns sang Việt Nam. Trong đó có nói rằng hai bên đang xác định nội hàm của khái niệm đối tác chiến lược. Ông có nghĩ rằng cả phía Việt Nam cũng hiểu khái niệm như phía Mỹ hiểu không? Xin lỗi vì câu hỏi hơi ngớ ngẩn của tôi, nhưng trên thực tế Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với một loạt quốc gia, thậm chí cả Tây Ban Nha nữa.
(Cười lớn) Tôi nghĩ, riêng về mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Mỹ, cả hai bên đều hiểu rõ điều đó thực sự có ý nghĩa gì. Trong những tháng tới cả hai bên sẽ làm việc để xác định những lĩnh vực cụ thể. Nhưng tôi muốn khẳng định lại rằng đây là một mối quan hệ toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực. Đây là cách để hình thành một lối tư duy mới cả từ hai phía để làm sao đưa mối quan hệ lên một tầm cao mới.
Ông có cho rằng hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ là một bộ phận cấu thành quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Việt?
Theo tôi hiểu, Việt Nam mong muốn hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu. Việc tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam có thể giúp Việt Nam thực hiện mong muốn đó, và còn hơn nữa - hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Ông nghĩ thế nào về triển vọng ký TPP trong vòng một năm nữa?
Các nguyên thủ của các quốc gia đang đàm phán TPP đã gặp nhau hồi tháng 10 ở Honolulu trong cuộc gặp thượng đỉnh (lần thứ hai). Họ đã cam kết sẽ hoàn tất đàm phán TPP trong năm 2012. Đó là một quá trình phức tạp, với những cam kết mở cửa rất rộng, nên sẽ phải có nhiều việc phải làm. Các nhà đàm phán Việt Nam là những nhà đàm phán giỏi, cứng rắn, nhưng cũng có nét thú vị riêng, và quan trọng, là họ hiểu được tất cả những lợi ích của Việt Nam khi ký hiệp định này.
Tôi tin là cuối cùng mọi chuyện sẽ ổn thoả, bởi các nguyên thủ đã cam kết sẽ thúc đẩy mạnh trong năm tới.
(Còn tiếp...)
Thứ nhất, cuộc trò chuyện được thực hiện trên xe hơi riêng của Đại sứ David Shear, trong chuyến đi Thái Bình ngày 16.12 vừa rồi của ông.
Thứ hai, đây không hẳn là cuộc phỏng vấn, mà là cuộc trò chuyện thoải mái giữa hai người lần đầu làm quen với nhau trong một chuyến đi. Mặc dù, tất nhiên, để có cuộc gặp đó hoàn toàn không phải do sự tình cờ.
Có điều, phóng viên cũng không cần phải mặt mày căng thẳng, với những câu hỏi "hóc búa" chuẩn bị sẵn, mà tiện đâu hỏi đấy, thích gì hỏi nấy. Còn vị đại sứ cũng không cần "thủ thế", "giữ kẽ", với tư cách là một nhà ngoại giao.
Đại sứ David Shear tự giới thiệu: "Trong nhiệm kỳ làm Phó Đại sứ Mỹ ở Kuala- Lumpur (Malaysia), hai vợ chồng tôi đã đi du lịch Việt Nam vào năm 2007. Chúng tôi rất thích Hà Nội, và Việt Nam nói chung. Lúc đó, tôi không hề nghĩ rằng sẽ có ngày mình sẽ quay trở lại Hà Nội với tư cách Đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Tôi nghĩ tôi đã gặp may."
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear. Ảnh: Huỳnh Phan |
Rời Malaysia, tôi trở về Washington làm việc trong ba năm, làm mảng Trung Quốc. Những người ở cấp của tôi bắt đầu tìm chỗ để đi làm đại sứ. Việt Nam chuẩn bị có chỗ trống, và thực sự tôi cũng không hy vọng là mình sẽ được cử sang Việt Nam.
Thế nhưng, vào một ngày đẹp trời, Sếp gọi tôi lên và hỏi tôi có đi Việt Nam không. Ký ức về khoảng thời gian ngắn ngủi đi du lịch Việt Nam đã khiến tôi nghĩ rằng sẽ chẳng có lựa chọn nào tốt hơn. Con người thân thiện, đồ ăn ngon lành, và phong cảnh rất đẹp... Vậy, tại sao lại không đi Việt Nam?
Tôi biết ơn Sếp tôi, và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã ủng hộ sự đề cử của tôi. Bởi một khi Bộ Ngoại giao đề cử, Nhà Trắng và Thượng viện phải phê chuẩn. Vì vậy, tôi cũng phải chờ một thời gian, và chỉ sang đây vào tháng 8 năm nay.
Vợ tôi tìm được một thầy dạy làm đồ gốm ngay gần nhà, thế là suốt ngày bà ấy vui thú với việc nặn lọ gốm.
Anh học tiếng Anh ở đâu?
Tôi tự học. Ngoại ngữ tôi được học ở trường lớp là tiếng Nga.
Anh còn nói tiếng Nga tốt chứ.
Cũng lâu không nói, do ít cơ hội giao tiếp.
Anh đã đến Moscow chưa?
Có, tôi học ở đó gần 2 năm, vào cuối những năm '70. Ông đã đến Moscow chưa?
Chưa. Nghề nghiệp của tôi chủ yếu dính dáng đến Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc và Đông Nam Á. Tôi đến châu Âu chỉ trong những chuyến công tác ngắn.
Có một lần tôi đã đến Berlin để đàm phán với Bắc Triều Tiên. Một cảm giác rất buồn cười khi đàm phán với người Bắc Triều Tiên ở Berlin.
Trước hay sau khi bức tường Berlin sụp đổ?
Tất nhiên là sau. Vào cuối những năm '90.
Người Mỹ muốn nhìn thấy một điều gì đó tương tự như nước Đức ở bán đảo Triều Tiên?
Có thể là vào một ngày nào đó. Nhưng tôi không hy vọng là sớm đâu.
Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Bắc Triều Tiên rất khác so với Đông Đức.
Trước khi sang đây, ông biết gì về Việt Nam? Về thời chiến nhiều hơn, hay thời bình nhiều hơn?
Nhiều người già ở Mỹ nghĩ tới Việt Nam là nghĩ tới cuộc chiến nhiều hơn. Nhưng cách nhìn đó đang thay đổi, do sự thay đổi thế hệ.
Còn tôi thì tìm hiểu cả hai, quá khứ lẫn hiện tại của Việt Nam. Tôi hiểu Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng.
Trước khi sang đây, tôi còn kịp học hai tháng tiếng Việt nữa. Tôi định tháng Một tới sẽ lại tiếp tục học tiếng Việt. Đó là Nghị quyết Năm Mới (New Year Resolution) của tôi. (Cười)
Tôi hy vọng là trước khi hết nhiệm kỳ ở đây, tôi sẽ có thể nói chuyện dễ dàng hơn với người Việt Nam. Chứ không ngớ ngẩn như lần tôi phải điều trần để Thượng Viện phê chuẩn.
Chuyện đó thế nào?
Khi đi dọc hành lang để vào cuộc điều trần trước Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện về việc phê chuẩn tôi làm đại sứ, tôi gặp TNS Jim Webb, người sẽ chủ toạ buổi điều trần đó. Tôi biết ông rất giỏi tiếng Việt, nên quyết định nói một câu tiếng Việt, với hy vọng lấy được thiện cảm của ông. Lúc đó, tôi mới học tiếng Việt được một tuần.
Khi bắt tay ông tôi trịnh trọng nói: "Rất hân hạnh được gặp chị."
Ông nhướn mắt nhìn tôi, rồi nói" Rất hân hạnh được gặp anh chứ."
Ông có cảm thấy thoải mái trong thời gian vừa qua ở Hà Nội không?
Rất thú vị. Tôi có một thời gian biểu rất bận rộn.
Không biết anh đã xem đoạn video khoảng hai phút tôi làm và đưa lên youtube nhiều tuần trước khi tôi sang đây. Trong đó tôi nói rằng một trong những nhiệm vụ của tôi là đại diện cho nước Mỹ trước chính phủ Việt Nam, và một nhiệm vụ khác là đại diện cho nước Mỹ trước nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện được điều đó, tôi phải ra khỏi Hà Nội, tới thăm những tỉnh thành khác.
Trong lúc chờ cơm trưa ở nhà hàng “Cây Trầu”, người lái xe đã mời Đại sứ Shear thử uống nước vối. Trên đường về, ông hỏi liệu có thể tìm được “nước vối” ở Hà Nội không. |
Tôi đến Đà Nẵng hai lần, TP Hồ Chí Minh ba lần, Hội An, Bạc Liêu, Sơn La và Ninh Bình. Tôi cố gắng làm sao đến trước khi về, có thể đi đủ hết các tỉnh thành của Việt Nam, để gặp gỡ người dân những nơi đó và có một hiểu biết đầy đủ về đất nước các bạn.
Vậy chuyến đi này cũng để thực hiện điều đó?
Đúng. Nhưng tôi thực hiện với sự thích thú.
Hai nhiệm vụ với chính phủ và nhân dân khác nhau thế nào?
Tôi nghĩ nếu tôi kết hợp tốt giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân, công việc của tôi ở đây sẽ hiệu quả hơn nhiều.
Thế những người ông gặp ở địa phương có thái độ thế nào với ông?
Họ rất thân thiện và mến khách. Tôi luôn cảm thấy dễ chịu khi gặp họ.
Ông có cảm giác tương tự khi gặp các quan chức chính phủ không?
Có chứ. Trong ba năm trở lại đây, quan hệ hai nước đã được cải thiện nhiều. Hai bên đều cảm thấy dễ lĩnh hội quan điểm của nhau hơn, và dễ hợp tác hơn, so với trước đó.
Chúng ta đã nhận ra rằng chúng ta có nhiều lợi ích chung. Và nhiệm vụ của một đại sứ như tôi là giúp làm sao cả hai bên có thể theo đuổi những lợi ích chung đó.
Tôi đã gặp một số quan chức cao cấp trong chính phủ Việt Nam, và các cuộc trao đổi đều diễn ra khá thân thiện. Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi William Burns đã thăm Việt Nam cách đây vài ngày, gặp gỡ với Thủ tướng, Ngoại trưởng và một loạt các quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam. Tôi đánh giá các cuộc gặp đó đều thú vị và hiệu quả.
Tôi nghĩ chúng ta có một tiềm năng rất lớn để phát triển quan hệ song phương. Cả ở cấp độ chính phủ và giữa nhân dân hai nước.
Anh nên nhớ rằng hiện có khoảng 15 ngàn sinh viên Việt Nam đang học tập ở khắp nơi trên đất nước Mỹ. Họ là những vị đại sứ tuyệt vời của Việt Nam trên đất Mỹ. Còn khi trở về nước, họ sẽ có những đóng góp quan trọng giúp Việt Nam trở nên giàu mạnh hơn.
Tôi nhắc tới điều đó để nhấn mạnh rằng đối ngoại nhân dân quan trọng như thế nào.
Quả thực là số sinh viên Việt Nam ở Mỹ bây giờ nhiều hơn so với số sinh viên Việt Nam cử sang Liên Xô học ở thời của tôi. Đó là một chỉ dấu rất quan trọng.
Và cũng dễ hiểu thôi, nền giáo dục đại học của Mỹ hấp dẫn không chỉ với giới trẻ Việt Nam, mà hầu như giới trẻ trên toàn thế giới. Con trai tôi chẳng hạn, vừa tốt nghiệp Đại học Ngoại thương được nửa năm và hiện đang làm Công ty Kiểm toán Delotte, cũng đang chuẩn bị để tìm học bổng sang Mỹ học cao học.
Ở sứ quán chúng tôi có một chuyên gia tư vấn về giáo dục. Hãy bảo cậu ấy đến đó để nhận được những chỉ dẫn và lời khuyên hữu ích cho việc tìm kiếm học bổng ở các trường đại học của Mỹ.
Xin cám ơn ông.
(Xe quay đầu trên đường Giải phóng)
Ồ, tôi biết chỗ ngoặt này để chuyển sang đường cao tốc. Tuần trước, tôi đi Ninh Bình, cũng hướng này.
Tôi đã đến Nhà thờ Phát Diệm. Và sau đó, vào bữa trưa chúng tôi ăn thịt dê, dê núi. Tuyệt vời. Sau đó, chúng tôi đi thuyền vào động Trang An.
Ông có uống rượu không?
Ồ, có. Cũng tuyệt.
Rượu tiết dê?
Ồ, không. Tôi chưa dám uống.
Ông có biết rằng tác giả của cuốn "Một người Mỹ trầm lặng" cũng đã từng nằm trên tháp chuông của của Nhà thờ Phát Diệm không?
Graham Green? Hay nhỉ?
Năm 1993, tôi đã dẫn một nhà văn Mỹ, người đang viết sách tiểu sử về Graham Green (tập 2) đến Nhà thờ Phát Diệm. Ông đòi lên Tháp chuông xem và chụp ảnh vì Graham Green đã từng nằm ở đó.
Đó là thông tin bây giờ tôi mới biết.
Ông thích cuộc sống ở đô thị, hay nông thôn, hơn?
Tôi mong rằng, sau khi nghỉ hưu, tôi sẽ có hai ngôi nhà, một ở thành phố, một ở thôn quê. Tôi sẽ để ý tiết kiệm tiền hơn để thực hiện được ý định đó.
Anh đã tới Thái Bình lần nào chưa?
Rồi. Lần trước, cách đây hơn 3 năm, tôi đã đi theo những người làm dự án về sự tham gia của người dân vào việc điều hành ở thôn xã.
Cách đây hơn 10 năm, ở Thái Bình đã xảy ra bất ổn lớn. Sau đó, cả chính quyền và một tổ chức NGO đã vào cuộc để xây dựng cơ chế dân chủ cơ sở, tức là tổ chức do người dân lập ra tự giải quyết một phần các mối quan hệ trong đời sống cộng đồng.
Kết quả ra sao?
Rất tốt, ít nhất là tốt hơn nhiều so với trước đó. Chính quyền thôn xã cũng thừa nhận rằng công việc của họ cũng đỡ phức tạp đi nhiều.
Ông nói là ông có lên Sơn La. Vậy ông nhìn nhận như thế nào về sự chênh lệch về trình độ phát triển ở đó với dưới này?
Quả thật là tôi có nhận thấy sự chênh lệch đó. Nhưng tôi cũng nhìn thấy cố gắng của Sơn La. Bằng chứng là tôi nhìn thấy rất nhiều xe máy trên đó, và việc canh tác trong những thung lũng ở Sơn La tỏ ra khá có hiệu quả.
Tôi rất muốn quay trở lại Tây Bắc để tìm hiểu thêm, và lưu lại lâu hơn, bởi tôi đã ở Sơn La chỉ có một ngày. Và tôi cũng muốn đến thăm Điện Biên Phủ.
Đúng vậy. Và lần tới, ông nên đi sâu hơn nữa vào vùng núi, nơi ông sẽ nhìn thấy ít xe máy hơn, và cuộc sống của người dân khó khăn hơn nhiều.
Con gái tôi hiện sống và làm việc ở New York. Cô bé sẽ sang Việt Nam chơi vào tháng Một, hay tháng Hai tới. Cô bé muốn đi du lịch Sa Pa. Có lẽ, chúng tôi sẽ đi tàu hoả lên đó, và chơi ở đó khoảng đôi ba ngày. Con gái tôi đã đi cùng chúng tôi trong chuyến du lịch Việt Nam năm 2007.
Kết hợp giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân là triết lý ngoại giao riêng của ông?
Không. Các đại sứ quán của Mỹ trên khắp thế giới đều làm như vậy.
Và đại sứ quán Việt Nam tại Washington, cũng như các lãnh sự quán ở vài bang khác, cũng làm điều tương tự.
Tất nhiên, ở cương vị đại sứ, tôi xuất hiện nhiều hơn trước những người dân Việt Nam, ở những sự kiện khác nhau, như tôi sắp làm trong chuyến đi này.
Nhưng không chỉ có tôi. Mọi nhân viên đại sứ quán đều phải ra ngoài làm nhiệm vụ này ở các sự kiện khác nhau.
Họ có phải xin phép khi phát biểu ở đâu đó không?
Tôi nghĩ là chúng tôi phải được sự cho phép của chính quyền phía Việt Nam để đi thăm một nơi nào đó. Nhưng, theo tôi biết, chúng tôi không cần xin phép khi phát biểu.
Điều mà tôi thấy thú vị là người Việt Nam rất tò mò về mọi khía cạnh trong quan hệ giữa hai nước chúng ta. Và tôi cũng rất thích thú khi hỏi họ về những điều họ suy nghĩ, họ quan tâm. Cứ mỗi lần đi tỉnh trở về, là lại một lần kiến thức của tôi về Việt Nam, về công việc của mình, lại dày dặn thêm.
Người dân thường hỏi ông những gì? Hay loại câu hỏi nào mà ông thường phải trả lời nhất?
Chẳng hạn, khi tôi gặp gỡ những người trẻ tuổi, tôi thường hay phải trả lời về việc làm thế nào để một thanh niên Việt Nam có thể qua Mỹ học, làm cách nào để tìm trường phù hợp, xin được visa, hay kiếm học bổng... Và chúng tôi cố gắng đáp ứng nguyện vọng của họ thông qua website của sứ quán, thông qua Văn phòng Education USA ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh.
Nhưng tôi nghĩ đó là mối quan tâm của giới trẻ ở đô thị, nơi có điều kiện tiếp cận giáo dục tốt hơn. Còn ở nông thôn, chắc giới trẻ quan tâm đến chuyện khác nhiều hơn, bởi chuyện đi học ở Mỹ với họ, theo tôi nghĩ, có vẻ hơi xa xỉ?
Ngay cả ở Bạc Liêu, tôi cũng gặp những thanh niên muốn sang Mỹ học. Tất nhiên, ở đó họ cũng quan tâm nhiều tới việc thu hút đầu tư từ Mỹ đến địa phương của họ.
Một mối quan tâm nữa của những người Việt tôi gặp là làm sao cải thiện hệ thống giáo dục của Việt Nam. Vì vậy, một trong những ưu tiên của tôi là tìm cách cải thiện hạ tầng giáo dục, và cả hạ tầng y tế, ở đây.
Tôi tò mò, không hiểu người dân thường ở Việt Nam mà ông gặp có quan tâm tới mối quan hệ đối tác chiến lược mà hai chính phủ chúng ta đang hướng tới không?
Có chứ, họ cũng rất quan tâm. Tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton vào tháng 10 năm ngoái tại Hà Nội, rằng hai nước mong muốn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, chính là một cách báo hiệu tốt nhất cho thế giới về quan hệ ngày càng được cải thiện giữa hai nước. Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng.
Quan hệ đối tác chiến lược có một nội hàm rất rộng, rất toàn diện, và là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có.
Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này, và tôi luôn nhấn mạnh tới những lợi ích chung của Việt Nam và Mỹ.
Tôi muốn khẳng định lại là những người Việt Nam bình thường khi nói chuyện với ông hỏi ông về quan hệ đó, chứ không phải ông chủ động nói với họ. Bởi dường như vế đầu tiên thực sự có ý nghĩa hơn?
Đúng, họ luôn hỏi tôi về mối quan hệ đối tác chiến lược. Và, anh nói đúng, điều đó thực sự có ý nghĩa quan trọng.
Tôi có đọc thông cáo báo chí của Đại sứ quán Mỹ liên quan đến chuyến đi của Thứ trưởng William Burns sang Việt Nam. Trong đó có nói rằng hai bên đang xác định nội hàm của khái niệm đối tác chiến lược. Ông có nghĩ rằng cả phía Việt Nam cũng hiểu khái niệm như phía Mỹ hiểu không? Xin lỗi vì câu hỏi hơi ngớ ngẩn của tôi, nhưng trên thực tế Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với một loạt quốc gia, thậm chí cả Tây Ban Nha nữa.
(Cười lớn) Tôi nghĩ, riêng về mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Mỹ, cả hai bên đều hiểu rõ điều đó thực sự có ý nghĩa gì. Trong những tháng tới cả hai bên sẽ làm việc để xác định những lĩnh vực cụ thể. Nhưng tôi muốn khẳng định lại rằng đây là một mối quan hệ toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực. Đây là cách để hình thành một lối tư duy mới cả từ hai phía để làm sao đưa mối quan hệ lên một tầm cao mới.
Ông có cho rằng hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ là một bộ phận cấu thành quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Việt?
Theo tôi hiểu, Việt Nam mong muốn hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu. Việc tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam có thể giúp Việt Nam thực hiện mong muốn đó, và còn hơn nữa - hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Ông nghĩ thế nào về triển vọng ký TPP trong vòng một năm nữa?
Các nguyên thủ của các quốc gia đang đàm phán TPP đã gặp nhau hồi tháng 10 ở Honolulu trong cuộc gặp thượng đỉnh (lần thứ hai). Họ đã cam kết sẽ hoàn tất đàm phán TPP trong năm 2012. Đó là một quá trình phức tạp, với những cam kết mở cửa rất rộng, nên sẽ phải có nhiều việc phải làm. Các nhà đàm phán Việt Nam là những nhà đàm phán giỏi, cứng rắn, nhưng cũng có nét thú vị riêng, và quan trọng, là họ hiểu được tất cả những lợi ích của Việt Nam khi ký hiệp định này.
Tôi tin là cuối cùng mọi chuyện sẽ ổn thoả, bởi các nguyên thủ đã cam kết sẽ thúc đẩy mạnh trong năm tới.
(Còn tiếp...)
No comments:
Post a Comment