Chu  Thập
Mới đây, công ty may mặc thời trang nổi tiếng của Ý “Benetton”  đã gây “sóng gió” tại Roma khi tung ra một tấm bảng quảng cáo với nội dung mà  nhiều người cho là xúc phạm đến vị lãnh đạo của Giáo hội công giáo là đức giáo  hoàng Benedicto. Với các kỹ thuật chỉnh sửa và ghép ráp hình rất tinh vi, bảng  quảng cáo đã cho đức giáo hoàng hôn môi một giáo sĩ hồi giáo một cách “mùi mẫn”.  

Không riêng nhà lãnh đạo của Giáo hội công giáo và vị giáo sĩ cao cấp của  Hồi giáo Ai cập, khách qua đường còn thấy một số cặp nguyên thủ quốc gia khác  cũng trong thư thế “hôn hít” rất là “kỳ cục” ấy, như tổng thống Barack Obama của  Hoa kỳ hôn chủ tịch Hồ cẩm Đào của Trung Quốc, rồi cũng tổng thống Obama hôn ông  Hugo Chavez, tổng thống Venezuela, như tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy hôn bà  Angela Merkel, thủ tướng Đức, như tổng thống Nam Hàn Lee Myung bak hôn lãnh tụ  “kính yêu” Bắc Hàn Kim Jong Il hay như thủ tướng Israel, Benjamin Netanyahu hôn chủ tịch Mahmoud Abbas  của Palestine. Lúc còn trong nước, mỗi lần chứng kiến cảnh các lãnh tụ trong  khối “xã hội chủ nghĩa anh em” hay “môi hở răng lạnh” trao cho nhau cái hôn “hữu  nghị” và áp má vào nhau nghe chùn chụt, tôi đã thấy lợm giọng rồi. Nay người ta  lại cho những nguyên thủ đáng kính trọng trên thế giới hôn nhau trên môi thì quả  thật, tôi chỉ muốn “nôn” mà thôi.
Với hàng chữ “Unhate” (không thù hận) được viết lớn bên cạnh tấm hình,  hãng Benetton lại đi đến tận cùng của ngụy biện để giải thích rằng mình làm như  thế là để kêu gọi xây dựng hòa bình và chấm dứt thù hận.
Trước đây, vào năm 1990, công ty may mặc thời trang này cũng đã cho phát  hành một số bảng quảng cáo cũng có nội dung tương tự nhưng ít táo bạo và thách  thức hơn như: một linh mục hôn một nữ tu, hình ảnh một trẻ sơ sinh đẫm máu, một  phụ nữ da đen cho một trẻ sơ sinh da trắng bú mớm, một bệnh nhân AIDS hấp hối  trên giường bệnh được bao quanh bởi những người thân trong trạng thái rất đau  khổ. Thông điệp được hãng này đưa ra xuyên qua những tấm bảng quảng cáo này là  hãy “chấp nhận” và “khoan nhượng”.
 Phản ứng mạnh mẽ nhứt trước tấm ảnh quảng cáo có hình đức giáo hoàng là  Tòa thánh Vatican. Ngay sau khi  Tòa thánh lên tiếng phải đối, hãng Benetton đã cho tháo gỡ bức hình có đức giáo  hoàng và tuyên bố rằng mục đích của chiến dịch quảng cáo là để chống lại văn hóa  thù hận dưới mọi hình thức, đồng thời cũng đã xin lỗi Tòa thánh vì đã xử dụng  hình ảnh của đức giáo hoàng để quảng cáo với nội dung xúc phạm đến tình cảm của  các tín hữu công giáo (x.bản tin của Đàn Chim Việt,  20/11/2011).
 Cũng như những người sinh ra và lớn lên trong một nền văn hóa đề cao  nguyên tắc “nam nữ thọ thọ bất thân”, có lẽ suốt thời niên thiếu, tôi chưa từng  thấy có ai công khai “hôn hít” bao giờ cả. Ngay cả như cha mẹ tôi cũng chưa một  lần bị tôi bắt gặp “quả tang” làm một cử chỉ âu yếm công khai nào chứ đừng nói  tới chuyện ôm nhau mà hôn hít. Mãi cho tới khi đến Pháp, lần đầu tiên tôi thực  sự bị “sốc” khi thấy bất cứ nơi công cộng nào người ta cũng hôn nhau được và dĩ  nhiên hôn nhau theo kiểu Tây (French kiss). Nhưng chuyện gì rồi cũng quen. Bây  giờ tôi thấy mình như “trơ” ra trước cảnh trai gái, đàn ông đàn bà ôm nhau hôn  trên màn ảnh cũng như trên đường phố trước mắt mình. Với tôi, cái hôn say đắm  hay bất cứ cử chỉ âu yếm nào của hai người khác phái đang yêu nhau lúc nào cũng  đẹp. Phải nói rằng cái hôn là cử chỉ biểu lộ tình cảm đẹp nhứt mà văn minh Tây  phương đã mang lại cho nhân loại. 
 Thật ra, mở Wikipedia để tra cứu, tôi thấy “hôn hít” không phải là phát  minh của văn minh Tây phương, mà đã có từ thời Ai cập cổ cũng như Hy lạp,  Assyria và Ấn dộ. Theo nhà nhân chủng học Cesare Lombroso ở thế kỷ 19, cái hôn  của những tình nhân xuất phát và tiến hóa từ cái hôn của người mẹ. Vào đầu thế  kỷ 20, nhà sử học Ernest Crawley, khi nghiên cứu về nguồn gốc của cái hôn, đã cho  rằng tại Nhựt Bản, trước thế kỷ 20, người ta chỉ biết có mỗi nụ hôn là nụ hôn  của người mẹ dành cho thơ nhi. Tại Phi Châu và những “vùng kém văn minh”, vợ  chồng hay người yêu không bao giờ hôn nhau.
 Tuy nhiên, trong bối cảnh tôn giáo, thì cái hôn xem ra rất phổ quát. Kinh  thánh của Do thái giáo cũng như Kinh Coran của hồi giáo ghi lại rất nhiều cái  hôn. Riêng Kitô giáo, trong giai đoạn tiên khởi, đã nói đến cái hôn bình an.  Theo ngã của văn minh Tây phương, đã có một dạo, cái hôn bình an này cũng được  du nhập vào Việt nam, nhưng không thể hội nhập vào văn hóa Việt nam. Tôi còn  nhớ, vào cao điểm của nghi thức Thánh lễ sau cuộc cải tổ của Công đồng Vatican  II, tức sau năm 1965, các tín hữu công giáo được vị chủ tế mời gọi trao cho nhau  một cử chỉ bình an. Ở Tây phương, thì đây là lúc người người bắt tay nhau hay  nếu thân hơn một chút thì ôm lấy nhau để gọi là trao cho nhau cái hôn bình an.  Trong chuyến đi Việt nam vừa rồi, tôi thấy cử chỉ bình an này vẫn còn được người  công giáo Việt nam trao cho nhau một cách máy móc và lạnh lùng. Trong đa số các  nhà thờ, nam nữ vẫn thọ thọ bất thân, nghĩa là nam vẫn cứ ngồi bên hữu và nữ thì  vẫn “tử thủ” bên tả. Khi linh mục kêu gọi trao bình an cho nhau, thì ai đó ra  hiệu và người ta mới quay sang nhau, có khi cũng chẳng cần nhìn nhau và rập ràng  cúi chào nhau. Đừng nói đâu xa, tại Úc đại lợi này, trong các thánh lễ bằng  tiếng Việt nam, mỗi khi được mời gọi trao ban bình an, cùng lắm người Việt nam  chỉ bắt tay nhau thôi. Ngay cả vợ chồng cũng chìa tay ra cho nhau! Hiếm lắm mới  thấy có những cặp vợ chồng ôm nhau để trao bình an cho  nhau.
 Dường như cái hôn vẫn còn là một cách biểu lộ tình cảm xa lạ với người  Việt nam và người Á châu nói chung. Phải chăng vì trân quý sự chân thành và sợ  những cái hôn Giuda mà người Việt nam còn e dè với cử chỉ này không? Nhưng dù  sống ở thời đại nào và thuộc nền văn hóa nào, con người vẫn phải đi vào quan hệ  với người khác bằng sự “tiếp xúc” qua thân xác của mình. Hôn cũng chỉ là một  hình thức tiếp xúc. Điều quan trọng không phải là sự tiếp xúc mà là mức độ thân  mật và chân tình của con người. Người ta vẫn có thể ngồi sát bên nhau mà vẫn là  người xa lạ hay kẻ thù của nhau. Một nụ hôn Giuda, dù có “mùi mẫn” đến đâu cũng  chẳng đánh động được người được hôn.
 Ngày nay y khoa đã khám phá ra sức mạnh chữa trị của sự va chạm và tiếp  xúc với một người khác. Chuyên gia tâm lý trị liệu Karl Menninger đã chứng minh  rằng những người “chậm trí” thường đáp trả một cách tích cực hơn nếu có sự tiếp  xúc giữa họ với người chữa trị họ. Một bài viết được đăng trong một tạp chí y  khoa ghi lại rằng các bệnh nhân bị đột quỵ thường trở lại bình thường mau chóng  hơn nếu có một người yêu thương họ hiện diện bên cạnh để nắm tay họ. Bài báo  cũng cho thấy rằng những nạn nhân bị tê liệt não bộ cũng sẽ cử động nhiều hơn  sau khi tiếp xúc với người thân. (x.Harold Sala, Joyfully Single in a  Couples’World, Mandaluyong  City, Philippines, 1996, trg  99)
 Tạp chí Reader’s Digest, ấn bản Úc châu, trong số ra tháng 12 này, cũng  ghi lại một câu chuyện thật cảm động về sức mạnh chữa trị và hồi sinh nhờ sự  tiếp xúc giữa người mẹ và một thơ nhi. Đây là một “phép lạ” mà các bác sĩ không  giải thích được, nhưng chỉ có cha mẹ đứa bé mới biết đích xác tại sao nó sống  còn. Theo câu chuyện, mặc dù phải còn 14 tuần nữa người phụ nữ tên là Kate Ogg,  29 tuổi, mới đến ngày lâm bồn, nhưng chị đã trải qua những cơn đau thắt không  chịu đựng nổi, cho nên đã được đưa vào bệnh viện Wollongong, New South Wales. Tại đây, hai đứa con sinh  đôi đầu lòng, một trai một gái của chị đã chào đời. Nhưng trong khi đứa em gái  tên là Emily đã “mang tiếng khóc vào đời” thì anh nó, Jamie, lại ra đời như một  khúc gỗ. Trong 20 phút, các bác sĩ đã tìm cách đưa dưỡng khí vào buồng phổi của  em, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô ích. Đứa bé vẫn không thở, không cử động,  không đáp trả lại với bất cứ thứ kích thích nào. Một trong những bác sĩ đã phải  thú nhận với người mẹ rằng họ không còn hy vọng nào để cứu sống em.  
 Để cho người mẹ được nhìn mặt con lần cuối, các bác sĩ đã đưa đứa bé trở  lại cho chị. Cùng với người chồng đang có mặt bên cạnh, người mẹ đã tháo tấm vải  quấn xung quanh đứa con và đặt nó trực tiếp tiếp xúc lên ngực mình. Chị vừa thổn  thức vừa ôm đứa bé vào lòng. Chị nhớ lại rất nhiều lần, mỗi khi chồng chị nhức  đầu hay đau yếu, chị đều ôm lấy anh và hôn vào mắt anh. Chị không bao giờ ý thức  rằng chính cái lối săn sóc mà người ta thường gọi là “chăm sóc theo kiểu  Kangaroo mẹ chăm sóc con” (kangaroo mother care) đó đã giúp cho bệnh tình của  chồng chị thuyên giảm rất nhiều.
 Ôm con vào lòng, Kate bắt đầu nói chuyện với nó. Chị kể cho nó nghe về em  nó và gia đình nó. Lạ lùng quá, sau vài phút, người mẹ nghe thấy lồng ngực của  đứa con bắt đầu cử động một cách nhịp nhàng. Chị nói cho chồng biết là có thể  đứa bé còn sống và bảo chồng đi gọi bác sĩ. Nhưng bác sĩ chạy đến chẩn đoán và  giải thích rằng đây có thể là một phản xạ tự nhiên mà thôi. Nhưng hai vợ chồng  vẫn không hết hy vọng. Họ đặt đứa bé vào lòng và cả ba ôm lấy nhau như bất cứ  một gia đình nào muốn gắn bó thân mật với nhau. Lần này, họ không thể tin được  điều đã xảy ra: đứa bé bắt đầu mở mắt ra và nắm lấy ngón tay của cha nó. Người  chồng liền chạy đi báo tin cho các bác sĩ. Một viên bác sĩ cùng với một y tá  nhẩn nha đến phòng và cũng với một giọng điệu như lần trước, ông giải thích rằng  hai vợ chồng đang bị ảo tưởng. Lúc bấy giờ người mẹ mới đưa một ngón tay của  mình cho viên bác sĩ xem và nói rằng đứa bé đã liếm vào ngón tay có dính sửa của  chị. Viên bác sĩ liền đưa tay bồng đứa bé lên và ngạc nhiên vô cùng khi nghe nó  bắt đầu khóc. Ông đặt nó xuống giường trở lại và đặt ống nghe lên lồng ngực của  nó. Đứa bé đã bắt đầu thở và máu cũng đã lưu chuyển trong người  nó.
 Bài viết trên báo Reader’s Digest đã trích dẫn lời của ông Matt  Hertenstein, một giáo sư phụ khảo về tâm lý học tại đại học DePauw, Hoa kỳ và là  một chuyên gia nổi tiếng trên thế giới về sức mạnh của sự “tiếp xúc” bằng da  thịt của con người. Giáo sư Hertenstein nói: “Thân xác của chúng ta thèm được  đụng chạm. Người ta đã chứng minh được ảnh huởng tích cực của sự “tiếp xúc” đối  với sinh lý, hệ thống miễn nhiễm, sự đáp trả trước sự căng thẳng và ngay cả não  bộ của chúng ta”. Điều này không chỉ đặc biệt có giá trị đối với trẻ sơ sinh mà  còn đối với mọi người trong bất cứ trạng thái thể lý và tinh thần  nào.
 Nhìn lại kinh nghiệm bản thân, mỗi lần ngã bệnh, ở bất cứ tuổi nào, điều  tôi sợ nhứt vẫn là sự cô đơn và điều tôi “thèm” nhứt vẫn là sự hiện diện của  người thân. Thật ra, không chỉ có những lúc đau yếu, mà bình thường, tôi vẫn  thấy thèm một lời chào hỏi, một nụ cười thân thiện, một ánh mắt giao cảm và cảm  thông và nhứt là một bàn tay thân ái nào đó, nếu không được vỗ lên vai, thì cũng  được nắm bắt.
 Trong một số dịp đặc biệt, tôi cũng cố  gắng hội nhập vào văn hóa Tây phương để “ôm hôn” người thân, nhứt là sau một  thời gian dài xa cách. Nhưng trong cuộc sống thường ngày, tôi vẫn luôn trân quý  những cử chỉ thân thiện và thân ái mà tôi nhận được và trao cho người khác. Đó  là những quà tặng vô giá mà người cho không bao giờ ngờ. Rất nhiều lần trong  đời, tôi đã lướt qua buồn khổ, thất bại, chán nản chỉ nhờ vào một cử chỉ hết sức  “vớ vẩn” của người thân. Một cái vỗ vai có thể khiến tôi đứng dậy làm lại từ  đầu, một ánh mắt khích lệ khiến tôi có sức mạnh để chạy trốn...công an. Quả  thực, tôi đã sống một cuộc sống đầy ý nghĩa cho đến hôm nay phần lớn nhờ vào  những tiếp xúc thân tình giữa người với người, và tôi tin rằng tôi vẫn luôn cần  như vậy.
Viết những giòng chữ này mỗi tuần, tôi cảm thấy hạnh phúc vì tôi biết  rằng tôi đang được “tiếp xúc” với người khác. Nhận và trao ban tình thân ái chắc  chắn là “thương vụ” duy nhứt mà tôi yêu thích và gắn bó trong cuộc đời  này. 
No comments:
Post a Comment