Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều duy trì hoặc đang tăng cường xây dựng hạm đội Hàng Không Mẫu Hạm ở Thái Bình Dương. Nga cũng không thể đứng ngoài.
Trong khi Bộ trưởng Quốc phòng Nga A. Serdyukov nói rằng, Nga không có kế hoạch đóng Hàng Không Mẫu Hạm trong tương lai dài hạn thì ở Bắc Kinh, New Dehli và Tokyo người ta nghĩ khác.
Trung Quốc đang hoàn thiện Hàng Không Mẫu Hạm “huấn luyện” của mình nâng cấp từ tàu Varyag của Liên Xô, đồng thời có kế hoạch đóng thêm 2 Hàng Không Mẫu Hạm hoàn toàn nội địa. Ấn Độ đang chờ một Hàng Không Mẫu Hạm do Nga chuyển giao trong thời gian tới, dự định đóng 2 tàu nữa trong nước. Nhật Bản về chính thức không đóng Hàng Không Mẫu Hạm nhưng họ đang đóng loạt tàu khu trục chở máy bay lớp 16DDH Hyūga. Nhưng các tàu này khi cần có thể chở cả các máy bay chiến đấu cất/hạ cánh đường băng ngắn kiểu F-35 của Mỹ.
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhiều khả năng trở thành "trường đua" vũ trang. Lịch sử đối kháng trong khu vực này trong thế kỷ 20 đã đầy ắp những sự kiện. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đụng độ cùng lúc tại đây là lợi ích của mấy đại cường.
Được Anh, Mỹ ủng hộ, đế quốc Nhật ra tay ngăn chặn sự bành trướng của Nga, vốn đụowc đế chế Đức khuyến khích đông tiến. Khi thăm căn cứ Kronshtadt của Hạm đội Baltic vào tháng 5/1902, Hoàng đế Đức Wilhelm II tỏ ý khi Nga tấn công ở phía đông, Đức sẽ bảo đảm an ninh các đường biên giới phía tây nước Nga. Khi chiếc thuyền buồm Hohenzollern của Hoàng đế Đức Wilhelm II khi rời cảng Kronshtadt đã đánh tín hiệu: “Đô đốc Đại Tây Dương chào mừng Đô đốc Thái Bình Dương”.
Các kế hoạch của đế quốc Nga và đế quốc Đức đã không thành - Nga thất bại trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 (mang tính chính trị hơn là quân sự), Hạm đội Thái Bình Dương của Nga bị tiêu diệt, sự bành trướng của Nga sang phía đông bị chặn đứng. Berlin cũng sẽ thất bại nặng nề trong Thế chiến I mà không thể trở thành “Đô đốc Đại Tây Dương”.
Trung Quốc đang hoàn thiện Hàng Không Mẫu Hạm “huấn luyện” của mình nâng cấp từ tàu Varyag của Liên Xô, đồng thời có kế hoạch đóng thêm 2 Hàng Không Mẫu Hạm hoàn toàn nội địa. Ấn Độ đang chờ một Hàng Không Mẫu Hạm do Nga chuyển giao trong thời gian tới, dự định đóng 2 tàu nữa trong nước. Nhật Bản về chính thức không đóng Hàng Không Mẫu Hạm nhưng họ đang đóng loạt tàu khu trục chở máy bay lớp 16DDH Hyūga. Nhưng các tàu này khi cần có thể chở cả các máy bay chiến đấu cất/hạ cánh đường băng ngắn kiểu F-35 của Mỹ.
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhiều khả năng trở thành "trường đua" vũ trang. Lịch sử đối kháng trong khu vực này trong thế kỷ 20 đã đầy ắp những sự kiện. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đụng độ cùng lúc tại đây là lợi ích của mấy đại cường.
Được Anh, Mỹ ủng hộ, đế quốc Nhật ra tay ngăn chặn sự bành trướng của Nga, vốn đụowc đế chế Đức khuyến khích đông tiến. Khi thăm căn cứ Kronshtadt của Hạm đội Baltic vào tháng 5/1902, Hoàng đế Đức Wilhelm II tỏ ý khi Nga tấn công ở phía đông, Đức sẽ bảo đảm an ninh các đường biên giới phía tây nước Nga. Khi chiếc thuyền buồm Hohenzollern của Hoàng đế Đức Wilhelm II khi rời cảng Kronshtadt đã đánh tín hiệu: “Đô đốc Đại Tây Dương chào mừng Đô đốc Thái Bình Dương”.
Các kế hoạch của đế quốc Nga và đế quốc Đức đã không thành - Nga thất bại trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 (mang tính chính trị hơn là quân sự), Hạm đội Thái Bình Dương của Nga bị tiêu diệt, sự bành trướng của Nga sang phía đông bị chặn đứng. Berlin cũng sẽ thất bại nặng nề trong Thế chiến I mà không thể trở thành “Đô đốc Đại Tây Dương”.
Hàng Không Mẫu Hạm hạt nhân George Washington (CVN 73) - biểu tượng của sức mạnh Mỹ trên Thái Bình Dương. |
Trước thế chiến II, nổi lên hàng đầu là đế quốc Nhật sau khi đánh bại Trung Quốc và đế quốc Nga đã chủ trương xây dựng “khu vực thịnh vượng Đại Đông Á” đặt ra mục tiêu đánh bật tất cả các cường quốc châu Âu khỏi các thuộc địa của họ ở tây châu Á - Thái Bình Dương và khóa chặt Mỹ ở đông châu Á -Thái Bình Dương.
Việc này đã khiến Anh, Mỹ với dự án “đại Nhật Bản” mất ảnh hưởng đối với đồng minh phương đông của mình. Nhưng đế quốc Nhật, dù có giành được những thành công ban đầu, đã không thể đơn độc đấu với các cường quốc Anglo-Saxon vốn có ưu thế hoàn toàn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, công nghệ. Bởi vậy, khi Berlin sụp đổ, đế quốc Nhật không còn cơ hội nào chống chọi lại Mỹ và Liên Xô.
Kết quả, từ nửa sau thế kỷ 20, phương Tây đã giữ được vị trí trong khu vực, dù có sự đổi ngôi giữa Mỹ và Anh, còn các cường quốc châu Âu khác cũng nhanh chóng mất vị trí khi quá trình phi thực dân hóa bắt đầu. Mỹ thay vì nô dịch trực tiếp đã sử dụng các phương pháp khác, có tính thực dân mới để kiểm soát các nước mới giành được tự do thông qua các cơ chế phức tạp của hệ thống tài chính thế giới, thương mại và chính trị kết hợp với tác động về quân sự và tư tưởng.
Thời kỳ Chiến tranh Lạnh
Đối thủ chủ yếu của phương Tây vẫn là Nga như trước đây song về hình thức là Liên Xô, quốc gia đã lấy lại vị thế của mình sau khi đánh bại Nhật Bản và giúp những người cộng sản Trung Quốc giành chiến thắng. Sau đó, 2 quốc gia anh em này đã giữ vững được chế độ đồng minh ở Triều Tiên và giáng cho Mỹ và phương Tây thất bại nặng nề. Điều đáng tiếc đố với Trung Quốc là Bắc Kinh chưa phải là một thế lực độc lập nên họ không thể giải phóng Đài Loan khỏi Quốc dân đảng cố thủ vì phải có hạm đội mạnh mới làm được việc đó.
Liên Xô và Trung Quốc không phải là đồng minh trong thời gian dài. Sau khi Stalin mất, vị thế của Nga ở châu Á - Thái Bình Dương bị suy yếu. Kết quả là châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành khu vực cạnh tranh giữa Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc.
Vị thế của Trung Quốc rất yếu và hầu như chỉ giới hạn trong hải phận của họ thì dần dần Bắc Kinh đã tăng cường các khả năng. Họ đã tích cực tác động đến các nước láng giềng thông qua các tổ chức cộng sản được thành lập từ ở Trung Á đến Mỹ Latinh, cũng như thông qua vô số các cộng đồng người Hoa ăn sâu bám rễ ở nhiều nước. Khác với người Nga ở hải ngoại, các cộng đồng Hoa kiều không hề cắt đứt liên hệ với quê hương.
Điều dễ hiểu là Trung Quốc vẫn chưa thể thách thức Mỹ trên đại dương, tự mình quy định dòng chảy cho các quá trình ở châu Á - Thái Bình Dương, muốn làm thế cần phải hiện đại hóa về chất tổ hợp công nghệ quốc phòng, khoa học và giáo dục, quân đội và hạm đội.
Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21
Tình hình đã thay đổi sau sự sụp đổ của Liên Xô. Bắc Kinh có cơ hội tiếp cận, lợi dụng di sản kỹ thuật quân sự của Liên Xô, trong đó có hải quân. Điều đó đã cho phép nước này nhanh chóng rút ngắn khoảng cách công nghệ với phương Tây. Nhờ các tàu ngầm diesel và tàu khu trục của Nga, cũng như nhờ thực hiện các chương trình tự lực mới (với các thiết bị Nga), Hải quân Trung Quốc giờ đã có thể hoạt động khá xa bờ. Đồng thời, Trung Quốc đã tiến sát đến việc sở hữu các Hàng Không Mẫu Hạm. Theo các chuyên gia quân sự, ngay trong thập kỷ này, Trung Quốc sẽ có 2 Hàng Không Mẫu Hạm tự đóng, cộng với Hàng Không Mẫu Hạm gần như hoàn chỉnh dựa vào tàu Varyag của Liên Xô trước đây.
Tuy nhiên, Bắc Kinh gặp phải cùng một vấn đề như đệ tam đế chế Đức - đó là khả năng của Mỹ với sự giúp sức của các đồng minh hoặc các quốc gia "có vấn đề" như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trở thành “phòng tuyến đầu tiên” nhằm phong tỏa Hải quân Trung Quốc.
Hiện nay, hạm đội Mỹ mạnh hơn nhiều và có công nghệ cao hơn nhiều hải quân Trung Quốc. Chẳng hạn, hạm đội Mỹ sở hữu 11 tàu sân bay và còn 1 chiếc dự bị. Ngũ Giác Đài trong 20 năm tới không định giảm số lượng Hàng Không Mẫu Hạm, dù trong trường hợp kinh tế tiếp tục khủng hoảng, có khả năng giảm số lượng Hàng Không Mẫu Hạm trực chiến xuống còn 9-10 chiếc, còn trong lực lượng dự bị sẽ có 1-2 tàu.
Ba Hàng Không Mẫu Hạm Trung Quốc, kể cả tàu huấn luyện, sẽ không thể đối chọi với sức mạnh ghê gớm đó. Ngoài ra, Mỹ đang tích cực giúp đỡ tăng cường quân đội, trong đó có hải quân của các nước đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương.
Đơn cử, Hàng Không Mẫu Hạm trực thăng Dokdo của Hàn Quốc có cấu trúc mang mọi nét đặc trưng của một tàu sân bay hạng nhẹ. Đội máy bay trên tàu Dokdo gồm 15 trực thăng. Tuy nhiên, không loại trừ là khi có quyết định chính trị trên tàu sẽ bố trí cả các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng AV-8 Harrier. Điều đó trên thực tế sẽ biếnHàng Không Mẫu Hạm trực thăng thành Hàng Không Mẫu Hạm nhẹ. Bởi vậy, nên xem Hàn Quốc như ứng viên gần nhất gia nhập “câu lạc bộ tàu sân bay”.
Việc này đã khiến Anh, Mỹ với dự án “đại Nhật Bản” mất ảnh hưởng đối với đồng minh phương đông của mình. Nhưng đế quốc Nhật, dù có giành được những thành công ban đầu, đã không thể đơn độc đấu với các cường quốc Anglo-Saxon vốn có ưu thế hoàn toàn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, công nghệ. Bởi vậy, khi Berlin sụp đổ, đế quốc Nhật không còn cơ hội nào chống chọi lại Mỹ và Liên Xô.
Kết quả, từ nửa sau thế kỷ 20, phương Tây đã giữ được vị trí trong khu vực, dù có sự đổi ngôi giữa Mỹ và Anh, còn các cường quốc châu Âu khác cũng nhanh chóng mất vị trí khi quá trình phi thực dân hóa bắt đầu. Mỹ thay vì nô dịch trực tiếp đã sử dụng các phương pháp khác, có tính thực dân mới để kiểm soát các nước mới giành được tự do thông qua các cơ chế phức tạp của hệ thống tài chính thế giới, thương mại và chính trị kết hợp với tác động về quân sự và tư tưởng.
Thời kỳ Chiến tranh Lạnh
Đối thủ chủ yếu của phương Tây vẫn là Nga như trước đây song về hình thức là Liên Xô, quốc gia đã lấy lại vị thế của mình sau khi đánh bại Nhật Bản và giúp những người cộng sản Trung Quốc giành chiến thắng. Sau đó, 2 quốc gia anh em này đã giữ vững được chế độ đồng minh ở Triều Tiên và giáng cho Mỹ và phương Tây thất bại nặng nề. Điều đáng tiếc đố với Trung Quốc là Bắc Kinh chưa phải là một thế lực độc lập nên họ không thể giải phóng Đài Loan khỏi Quốc dân đảng cố thủ vì phải có hạm đội mạnh mới làm được việc đó.
Liên Xô và Trung Quốc không phải là đồng minh trong thời gian dài. Sau khi Stalin mất, vị thế của Nga ở châu Á - Thái Bình Dương bị suy yếu. Kết quả là châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành khu vực cạnh tranh giữa Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc.
Vị thế của Trung Quốc rất yếu và hầu như chỉ giới hạn trong hải phận của họ thì dần dần Bắc Kinh đã tăng cường các khả năng. Họ đã tích cực tác động đến các nước láng giềng thông qua các tổ chức cộng sản được thành lập từ ở Trung Á đến Mỹ Latinh, cũng như thông qua vô số các cộng đồng người Hoa ăn sâu bám rễ ở nhiều nước. Khác với người Nga ở hải ngoại, các cộng đồng Hoa kiều không hề cắt đứt liên hệ với quê hương.
Điều dễ hiểu là Trung Quốc vẫn chưa thể thách thức Mỹ trên đại dương, tự mình quy định dòng chảy cho các quá trình ở châu Á - Thái Bình Dương, muốn làm thế cần phải hiện đại hóa về chất tổ hợp công nghệ quốc phòng, khoa học và giáo dục, quân đội và hạm đội.
Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21
Tình hình đã thay đổi sau sự sụp đổ của Liên Xô. Bắc Kinh có cơ hội tiếp cận, lợi dụng di sản kỹ thuật quân sự của Liên Xô, trong đó có hải quân. Điều đó đã cho phép nước này nhanh chóng rút ngắn khoảng cách công nghệ với phương Tây. Nhờ các tàu ngầm diesel và tàu khu trục của Nga, cũng như nhờ thực hiện các chương trình tự lực mới (với các thiết bị Nga), Hải quân Trung Quốc giờ đã có thể hoạt động khá xa bờ. Đồng thời, Trung Quốc đã tiến sát đến việc sở hữu các Hàng Không Mẫu Hạm. Theo các chuyên gia quân sự, ngay trong thập kỷ này, Trung Quốc sẽ có 2 Hàng Không Mẫu Hạm tự đóng, cộng với Hàng Không Mẫu Hạm gần như hoàn chỉnh dựa vào tàu Varyag của Liên Xô trước đây.
Tuy nhiên, Bắc Kinh gặp phải cùng một vấn đề như đệ tam đế chế Đức - đó là khả năng của Mỹ với sự giúp sức của các đồng minh hoặc các quốc gia "có vấn đề" như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan trở thành “phòng tuyến đầu tiên” nhằm phong tỏa Hải quân Trung Quốc.
Hiện nay, hạm đội Mỹ mạnh hơn nhiều và có công nghệ cao hơn nhiều hải quân Trung Quốc. Chẳng hạn, hạm đội Mỹ sở hữu 11 tàu sân bay và còn 1 chiếc dự bị. Ngũ Giác Đài trong 20 năm tới không định giảm số lượng Hàng Không Mẫu Hạm, dù trong trường hợp kinh tế tiếp tục khủng hoảng, có khả năng giảm số lượng Hàng Không Mẫu Hạm trực chiến xuống còn 9-10 chiếc, còn trong lực lượng dự bị sẽ có 1-2 tàu.
Ba Hàng Không Mẫu Hạm Trung Quốc, kể cả tàu huấn luyện, sẽ không thể đối chọi với sức mạnh ghê gớm đó. Ngoài ra, Mỹ đang tích cực giúp đỡ tăng cường quân đội, trong đó có hải quân của các nước đồng minh ở châu Á - Thái Bình Dương.
Đơn cử, Hàng Không Mẫu Hạm trực thăng Dokdo của Hàn Quốc có cấu trúc mang mọi nét đặc trưng của một tàu sân bay hạng nhẹ. Đội máy bay trên tàu Dokdo gồm 15 trực thăng. Tuy nhiên, không loại trừ là khi có quyết định chính trị trên tàu sẽ bố trí cả các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng AV-8 Harrier. Điều đó trên thực tế sẽ biếnHàng Không Mẫu Hạm trực thăng thành Hàng Không Mẫu Hạm nhẹ. Bởi vậy, nên xem Hàn Quốc như ứng viên gần nhất gia nhập “câu lạc bộ tàu sân bay”.
Hàng Không Mẫu Hạm trực thăng Dokdo của Hàn Quốc. |
Ở châu Á - Thái Bình Dương, hạm đội Mỹ có thể duy trì đồng thời hơn 4-5 Hàng Không Mẫu Hạm (trong thời kỳ đặc biệt căng thẳng), trong khi 1-2 tàu thường được sửa chữa định kỳ hoặc chuẩn bị để hành quân. Tuy nhiên, khi tăng cường lực lượng ở một khu vực nào đó thì lực lượng ở các hướng chiến lược khác bị suy yếu đi. Chẳng hạn, hiện nay, Mỹ đặt ra vấn đề giải thể Hạm đội 2 của Hải quân Mỹ mà địa bàn trách nhiệm gồm Bắc Đại Tây Dương và Tây Bắc cực. Hạm đội này có thể bị cắt giảm xuống mức cơ cấu danh nghĩa gồm chủ yếu là các đơn vị huấn luyện và bảo đảm với số tàu chiến tối thiểu.
Trên thực tế, đang tái diễn kịch bản đầu thế kỷ 20, khi mà Đức và Nga đã có thể thách thức thế giới Anglo-Saxon, nhưng cuối cùng lại buộc phải quay ra đánh nhau, khiến các kế hoạch thống trị thế giới đều sụp đổ.
Hiện nay, Bắc Kinh không ngại lợi dụng Nga để thu hút lực lượng của Mỹ, thế giới phương Tây lên hướng bắc. Đối với Nga, hướng chiến lược phía bắc quả thực là quan trọng sống còn, sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã mất nhiều vị thế ở hướng này. Cần phải tăng cường hạm đội phương Bắc, thành lập các đơn vị cơ động sẵn sàng hoạt động ở điều kiện Cực Bắc, tiến hành các chương trình phát triển các khu vực phía bắc.
Tuy nhiên, Nga cũng sẽ không quên châu Á - Thái Bình Dương, bởi Nhật Bản liên tục yêu sách lãnh thổ đối với Nga (Xét đến sự tăng cường hải quân của Nhật thì đây là mối đe dọa hiện thực đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga); tình hình bất ổn trên bán đảo Triều Tiên; sức mạnh của Mỹ vẫn còn đó; Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh.
Bởi vậy, việc hiện đại hóa hạ tầng quân sự ở khu vực Viễn Đông của Nga cũng cần thiết sống còn. Tính đến các yếu tố đó, Nga cũng phải có các kế hoạch xây dựng khoảng 3 cụm tàu sân bay xung kích, đồng thời phải có 1 Hàng Không Mẫu Hạm dự bị. Điều đó sẽ cho phép bảo đảm lợi ích của Nga ở Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương.
Trên thực tế, đang tái diễn kịch bản đầu thế kỷ 20, khi mà Đức và Nga đã có thể thách thức thế giới Anglo-Saxon, nhưng cuối cùng lại buộc phải quay ra đánh nhau, khiến các kế hoạch thống trị thế giới đều sụp đổ.
Hiện nay, Bắc Kinh không ngại lợi dụng Nga để thu hút lực lượng của Mỹ, thế giới phương Tây lên hướng bắc. Đối với Nga, hướng chiến lược phía bắc quả thực là quan trọng sống còn, sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã mất nhiều vị thế ở hướng này. Cần phải tăng cường hạm đội phương Bắc, thành lập các đơn vị cơ động sẵn sàng hoạt động ở điều kiện Cực Bắc, tiến hành các chương trình phát triển các khu vực phía bắc.
Tuy nhiên, Nga cũng sẽ không quên châu Á - Thái Bình Dương, bởi Nhật Bản liên tục yêu sách lãnh thổ đối với Nga (Xét đến sự tăng cường hải quân của Nhật thì đây là mối đe dọa hiện thực đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga); tình hình bất ổn trên bán đảo Triều Tiên; sức mạnh của Mỹ vẫn còn đó; Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh.
Bởi vậy, việc hiện đại hóa hạ tầng quân sự ở khu vực Viễn Đông của Nga cũng cần thiết sống còn. Tính đến các yếu tố đó, Nga cũng phải có các kế hoạch xây dựng khoảng 3 cụm tàu sân bay xung kích, đồng thời phải có 1 Hàng Không Mẫu Hạm dự bị. Điều đó sẽ cho phép bảo đảm lợi ích của Nga ở Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương.
No comments:
Post a Comment