Nguyễn Văn Liêm
Sông Hương không chỉ là một vẻ đẹp hoàn mỹ mà tạo hoá đã ban cho Huế mà nó còn là một dòng sông huyền thoại ẩn chứa nhiều điều về mảnh đất Cố Đô xưa.
Từ Ngã Ba Tuần về đến phố cổ Bao Vinh, sông Hương là trục chính của đô thị Huế, là thế phong thủy vững bền cho các vua nhà Nguyễn định đô bởi có thế “tả Thanh Long”, “hữu Bạch Hổ” được tạo nên từ hai cồn đất nổi ở giữa sông là cồn Hến và cồn Dả Viên trấn yểm ở hai đầu đoạn sông chảy qua trước cửa Hoàng thành.Nếu có dịp đến Huế, bạn hãy xuôi dòng Hương Giang để tận hưởng chút không khí trong lành và yên tĩnh trên dòng sông thơ mộng. Những chiếc thuyền lặng lờ trôi theo dòng nước biếc, nắng trải vàng như mật khiến cho dòng sông lung linh như được dát vàng. Trước mặt bạn, những xóm làng, chùa chiền, đình đền miếu mạo, lăng tẩm, thành quách… trên đôi bờ Sông Hương bất chợt hiện ra. Tất cả những thứ đó như minh chứng cho một thời vàng son đáng nhớ của dòng sông đầy huyền thoại này.
Đó là những gì bạn sẽ cảm nhận được khi đến Huế, còn bây giờ mời bạn hay lên thuyền của tôi, cùng tôi xuôi dòng Hương Giang nhé, bắt đầu từ ngã ba Bằng Lãng ngoạn mục nhé:
Ngã ba Bằng Lãng
Ngã ba Bằng Lãng (còn gọi là ngã ba Tuần) là ngã ba sông rất nổi tiếng ở Huế, nơi hợp lưu của dòng tả trạch chảy từ vùng núi trung bình huyện Nam Đông với độ cao tuyệt đối 900m và dòng hữu trạch từ thượng ngàn A Lưới đổ xuống để tạo thành sông Hương. Nơi đây ngày xưa vốn là nơi đóng quân bảo vệ phía tây kinh thành Huế, là nơi lực lượng tuần hà khám xét và thu thuế các thuyền bè chở sản vật từ thượng nguồn sông Hương về kinh thành cho nên gọi là bến đò Tuần ("tuần"có nghĩa là đi canh gác). Từ xa xưa đây đã thành hình tụ hội cư dân về lập ấp, dựng nghiệp là dấu hiệu mở đầu của một sức sống tiềm tàng mà dòng Hương sẵn lòng mang lại cho đôi bờ phố thị của chốn Kinh đô. Từ bến Tuần có đò ngang sang làng Hải Cát (dân gian gọi là sang Trẹm) và lăng Minh Mạng (sang làng La Khê bãi) cho nên còn gọi là đò ba bến (theo một đường tam giác).
“Còn mặt trời thì chớ
Tắt mặt trời dạ thiếp nhớ bâng khuâng
Trời mấy bữa ni mưa mô gió nấy, đò Tuần không đưa (hò)”
Mặt nước trong vắt nơi đây lặng lờ giây lát như còn bịn rịn lời giai duyên, nguyện ước. Tương truyền rằng, xưa vua Minh Mạng ngự thuyền qua, nhìn cảnh trí non, nước, mây trời tuyệt đẹp đã rung động cảm tác :
”Một thước nước in trời
Đò ai chiếc lá khơi
Non cao xem vòi vọi
Dòng biếc thấy vơi vơi...”
Bên cạnh bến đò Tuần, ngày trước nơi đây còn có bến phà Tuần, hàng ngày những con phà cần mẫn đưa khách và ô tô sang sông để lên địa bàn huyện A Luới, là con đường duy nhất nối liền thành phố với A Lưới và cửa ngõ sang Lào.
Với gia đình tôi, bến đò Tuần cũng gắn nhiều kỷ niệm, bởi lẽ cô em gái sau khi ra trường đã về nơi đây dạy học và bén duyên ở đó. Ngày rước dâu, đoàn xe dâu phải ngừng lại bên bến đò Tuần để nhường chỗ cho những chiếc thuyền dâu qua sông. Với mọi người đó là một đám rước dâu thú vị, thế nhưng với bố tôi lúc đó, nhìn cảnh con gái về nhà chồng cách trở đò giang đã ngậm ngùi rơi lệ.
Trận lũ tháng 11 năm 1999, trận lũ chưa từng có ở Huế đã làm nơi đây trở nên điêu đứng, tan hoang. Sau một đêm mưa suốt, sấm sét ầm ĩ trên bầu trời đen kịt, đến khoảng nửa đêm 1/11/1999 thì cả hai dòng nước lũ (tả và hữu trạch) đã nhập thành một biển nước mênh mông, nhấn chìm tất cả. Toàn bộ Làng Bằng Lãng chỉ còn thấy ngọn đồi và tượng Phật Bà Quan Âm. Cả làng đã kịp chạy lên trên ngọn đồi Phật Bà và tầng lầu của trường cấp II, nhưng chỉ chạy được người, còn toàn bộ tài sản đều trôi sạch. Bốn ngày sau khi nước lũ bắt đầu rút, chiếc ca nô của bộ đội biên phòng mang theo mì gói lên, cả làng ùa xuống với những cánh tay đói lả. Một cụ già vừa nhận được gói mì đã xé toạc giấy gói nhai ngấu nghiến. Hình ảnh đó được VTV truyền đi khiến đồng bào cả nước đau thắt ruột.
Những cánh tay đói lả nhận thức ăn cứu trợ ở ngã ba Tuần (Thừa Thiên - Huế) sáng 5-11, khi chiếc canô đầu tiên của bộ đội biên phòng vượt lũ lên được đầu nguồn sông Hương. (Ảnh tư liệu)
Tượng Phật bà Quan Âm trên đỉnh đồi Tứ Tượng, nơi cao nhất mà mọi người vẫn kéo lên tránh lũ khi nước dâng cao
Sau khi cây cầu đẫ xây dựng nên, có nhiều ý kiến lại cho rằng nó phá vỡ đi cảnh quang của vùng thượng nguồn sông Hương, cảnh quang của Lăng Minh Mạng vì nó quá gần lăng. Riêng tôi, lại không nghĩ như vậy, liệu những người đó sẽ nói gì khi chứng kiến hàng trăm người dân mắc kẹt giữa cơn lũ, bị chia cắt, đói lả, dù nơi đó chỉ cách thành phố có 10km. Với người dân vùng đất bãi, cây cầu là ước mơ ngàn đời của họ. Ngày khánh thành, tôi được nghe kể lại có nhiều cụ già bắt con cháu phải dẫn mình đến để đặt chân lên được cây cầu mới, “ngắm cho đã rồi có chết cũng sướng”.
Linh thiêng Điện Hòn Chén
Tiếp tục xuôi dòng sông Hương, thấp thoáng giữa những rừng cây xanh um trải dài từ chân đến đỉnh ngọn núi Ngọc Trản và bình yên soi bóng bên dòng sông Hương trong xanh huyền thoại là điện Hòn Chén, một di tích tôn giáo và danh thắng nổi tiếng thuộc quần thể di tích cố đô Huế, nằm trên địa bàn làng Hải Cát, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà.
Điện Hòn Chén nằm sát bờ sông Hương
Không biết ngôi đền thờ ở Ngọc Trản Sơn có tự bao giờ, chỉ biết rằng người Chăm xưa từng thờ cúng nữ thần Po Nagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) ở núi này. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần Po Nagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Sau khi tiếp nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc đáo như điện Hòn Chén, đến thời nhà Nguyễn, các vua, chúa tiếp tục tu sửa, mở rộng đền. Và để ký âm cho danh từ Po Nagar bằng Hán văn, các Nho sĩ ngày xưa đã phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ý nghĩa tương đương nhất định bằng bốn chữ Hán: Thiên Y A Na. Từ đó tục thờ Thánh Mẫu Thiên Yana với những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc sâu xa là tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo, cũng như ở miền bắc thờ Mẫu Vân Hương, hay ở miền nam thờ Mẫu ở núi Bà Đen, hoặc Pohnaga ở Tháp Chàm - Nha Trang.
Mặt bằng kiến trúc của toàn bộ ngôi đền không rộng, gồm điện thờ chính là Minh Kính Ðài nằm ở giữa, mặt hướng ra sông; bên phải là Nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là Dinh Ngũ Vị Thánh Bà; bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ – con cọp), Am Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là Am Thủy Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, còn có một số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác đó đây, như Am Cô Ngọc Lan, Am Trung Thiên… Liễu Hạnh Công Chúa, tức là Vân Hương Thánh Mẫu cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngoài ra, tại điện Hòn Chén, người ta còn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Ðồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy. Như vậy, xét về mặt tín ngưỡng, điện Hòn Chén bối cục thờ không theo nguyên tắc, mà phối thờ nhiều tín ngưỡng khác nhau.
Khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn mình dưới bóng dâm của một khóm rừng cổ thụ tán lá xum xuê. Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, được dùng cho toàn cảnh thiên nhiên và kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Dù thuyền cập bến, đứng nhìn lên, khách dễ tưởng mình đang lạc vào chốn thần tiên.
Trong quần thể di tích cố đô Huế, có lẽ điện Hòn Chén gắn với nhiều giai thoại nhất. Dân gian còn lưu truyền rằng điện Hòn Chén xưa có tên là Hoàn Chén với ý nghĩa “trả lại chén ngọc”, vì vua Minh Mạng trong một lần lên đây đã đánh rơi một chén ngọc xuống dòng Hương, tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua! Trước điện là một cái vực rất sâu chưa ai đo được. Xưa kia, lắm người chài ngư nổi danh bơi lội cũng không lặn tới đáy sông được. Người ta tin rằng, vua Hà Bá ngự trị ở chốn này. Ghe thuyền mỗi khi đi qua đều im hơi lặng tiếng để tỏ lòng thành kính. Tương truyền nhiều người bị đắm thuyền chết đuối chỉ vì đã ngạo mạn với Mẫu thần. Nơi đáy vực có con ba ba to bằng chiếc chiếu rộng, mỗi lần nổi lên thường gây sóng gió dữ dội, mọi người lúc bây giờ đều tin đó là sứ giả của thần Hà Bá. Thấy dân chúng bị nạn, trong một buổi cúng tế, vua Tự Đức đã đeo vào tay thần một chuỗi bồ đề để cầu xin lòng từ bi cho chúng sanh. Người ta còn kể rằng, trong một hốc đá ở bợt bến, có một con cá trạch lớn như chiếc chiếu, thỉnh thoảng vụt lên mặt nước làm tung bọt trắng xóa. Dân chúng hoảng hốt sợ, không dám gọi là "con" mà gọi bằng "cố"- Cố trạch.
Trong số mười ba vị vua triều Nguyễn thì vua Đồng Khánh là một tín đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu này. Từ năm 1883 đến năm 1885, vì gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, vua Ðồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa được lên nối ngôi cha nuôi là vua Tự Ðức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu đảo và hỏi Thánh Mẫu Thiên Yana xem mình có làm vua được không. Theo một số người kể lại thì thần Thiên Yana đã cho hoàng tử biết ngày đăng quang và cũng cho biết ông chỉ ở ngôi được 3 năm rồi mất.
Quả nhiên lời tiên đoán của nữ thần điện Hòn Chén thật đúng, bởi vậy sau khi lên ngôi vào năm 1886, vua Ðồng Khánh liền cho xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ khí tự để thờ và đổi tên ngôi đền là Huệ Nam Ðiện để tỏ lòng biết ơn Thánh Mẫu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Từ đó vua Đồng Khánh rất tin tưởng về sự linh ứng của nữ thần Điện Hòn Chén; gặp việc gì khó xử ông thường đến đây để cầu đảo và dường như việc gì cũng được như ý nên vua Đồng Khánh đã phê rằng: “Điện Hòn Chén là một đền linh diệu thiên cổ, thế núi trông thật giống hình con sư tử uống nước dưới sông, quả là chân cảnh thần tiên, cứu đời, giúp người nhiều lắm”. Tháng 6, 7 năm 1886 tại Huế không có một giọt mưa, vua bèn sai các quan ở Phủ Thừa Thiên lập đàn cầu đảo khắp các đền trong kinh thành nhưng trời vẫn không mưa, đến khi lên cầu đảo tại đền Hòn Chén, chỉ trong một buổi sáng thôi mà trời đổ mưa tầm tả, ai cũng cho là linh ứng. Cũng chính vì sự linh ứng ấy mà vua Đồng khánh rất lo sợ trước lời tiên đoán của Nữ Thần. Và rồi không cãi được mệnh trời, năm 1888, ông thọ bệnh, đau liên tục, các ngự y bó tay, đến năm 1889 thì ông mất, đúng sau 3 năm ngồi trên ngai vàng.
Vua Đồng Khánh còn làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yana. Hiện nay trong đền vẫn còn thờ vài bức tranh ảnh của chính nhà vua được treo ở đây. Chính vua đã ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân - thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Tại Huế vẫn truyền tụng câu ca “Tháng 7 Vía Cha, tháng ba Vía Mẹ” là nói đến 2 lễ tế này. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, còn tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Nghi lễ tại Ðiện Hòn Chén rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Ðám rước Thiên Yana Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.
Hàng vạn người đến tham gia lễ hội
Long kiệu của Thánh Mẫu là kiệu thêu, do các trinh nữ ăn mặc sặc sỡ khiêng, còn các bà, người mang bình hương, ống trầu, bình trà, hòm đựng đồ trang sức, kẻ mang cờ, biển, tàn, lọng, gối, quạt… Các thanh niên thì vác các đồ lễ bộ, bát bửu và các tự khí khác. Ðám rước đầy màu sắc rực rỡ, không khí trang nghiêm. Khi đoàn ghé bến, đám rước chuyển từ sông lên bộ, đi cho đến đình làng Hải Cát, có phường bát âm đi sau kiệu. Phường bát âm với những bài hát chầu văn ca ngợi Thánh Mẫu và chư vị thánh thần. Các tín đồ vừa đi vừa hát, múa trên những chiếc bằng trong trang phục lộng lẫy, dưới lọng kiệu là đồ thờ của Mẫu Thiên Yana. Tất cả tạo nên một không khí tín ngưỡng thiêng liêng, huyền ảo và sôi động. Suốt đêm, trên mặt sông Hương và có khi ở trước đình làng là các cuộc hát thờ, hầu đồng, hầu bóng. Sáng ngày hôm sau là lễ chánh tế, tổ chức từ 02g – 05g00 sáng. Sau đó là lễ Tống thấn. Mặt sông Hương lại bùng lên với âm nhạc, pháo nổ tưng bừng, hàng trăm chiếc thuyền, bằng chen chúc, những bộ lễ phục rực rỡ.
Những năm gần đây, lễ hội Hòn Chén tấp nập, tưng bừng hơn. Vào ngày chính lễ có cả trăm chiếc thuyền, bằng trẩy hội trên dòng Hương, tín đồ của cả nước về tụ hội, dâng lễ, rước Mẫu, các tín đồ tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo lại có dịp trở về với Mẫu Thiên Yana với những sinh hoạt văn hóa dân gian tạo nên vẻ phong phú của nét văn hóa xứ Huế. Không chỉ dừng lại là một lễ hội văn hóa dân gian mà nó còn thu hút một lớn số lượng du khách trong nước lẫn nước ngoài, là sự pha trộn nhiều màu sắc tín ngưỡng và không biệt tín ngưỡng, đưa mọi người đến gần nhau hơn.
Điện Hòn Chén - là một trong mười sáu di tích được xếp hạng danh mục quần thể di tích Huế, di sản văn hóa thế giới. Đó cũng là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế và là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và đồng bóng; giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan. Đến thăm thành phố Huế đúng dịp diễn ra lễ hội, xuôi thuyền ngược dòng Hương Giang đến núi Ngọc Trản, du khách sẽ được tham gia vào lễ tế điện Hòn Chén, tận mắt chứng kiến cái không khí linh thiêng, huyền ảo tại nơi này.
Đồi Vọng cảnh
Dòng sông Hương sau khi hợp lưu hai dòng Tả Hữu Trạch ở ngã ba Bằng Lãng xuôi về hạ lưu được vài cây số thì va vào độn Bạc (người Huế gọi các ngọn đồi thấp là “độn”). Không xuyên qua được dãy đồi này theo hướng chảy, dòng sông đột ngột chuyển hướng theo một khúc gấp hình thước thợ. Chính ở nơi dòng sông chuyển hướng đó mà từ độn Bạc có đôi mắt nhìn lên cả một vùng phía Tây núi rừng trùng điệp, dòng sông lững lờ trôi, nhìn qua những vườn cây trái xanh tươi. Đứng trên đồi này, người ta có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của dòng sông nổi tiếng đa tình và gợi cảm. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú. Cũng chính từ ý nghĩa đó, ngọn đồi này còn mang cái tên mỹ miều hơn so với tên gọi dân gian : Đồi Vọng Cảnh.
Từ Đồi Vọng cảnh nhìn về phía thượng nguồn sông Hương
Thông xanh được trồng nhiều trên đồi Vọng Cảnh và đây cũng là điểm du ngoạn của tuổi học trò. Thích thú nhất là được ngồi ở sườn đồi sát bờ sông, ngắm những con đò rẽ sóng nơi sông Hương lặng lẽ chuyển dòng, nghe vọng âm của gió, của nắng, của núi đồi, sông nước, của con tim yêu thương tuổi sắp sửa vào đời. Hai vợ chồng tôi từ lúc mới quen nhau, yêu nhau đã không ít lần đến đây, cùng ngôi bên nhau, ngắm một khoảng không gian trãi rộng phía trước, ngắm dòng sông Hương lấp loáng ánh bạc phía dưới mình, mà tuyệt vời nhất là những lúc hoàng hôn trên ngọn đồi này.
Năm 2005, Đồi Vọng cảnh bỗng dưng nổi tiếng khắp nơi, cả trong nước lẫn nước ngoài, khi người ta định tiến hành Dự án Life Resort Vọng Cảnh với số tiền 4,9 triệu USD. Dự án đã vấp phải nhiều ý kiến phản đối của người dân Huế, cả ở trong nước lẫn ngoài nước. Không ai muốn một địa điểm tuyệt đẹp như vậy bỗng dưng trở thành một “thị trấn du lịch nho nhỏ”, nó phá vỡ đi cảnh quan của dòng sông Hương thơ mộng, và sẽ làm ô nhiễm cả nguồn nước của nhà máy nước Vạn Niên cung cấp cho cả Thành phố nằm cách đó chỉ 300m.
Với người dân Huế, Đồi Vọng Cảnh là một điểm ngắm địa đầu lý tưởng khung cảnh thiên nhiên của Huế, là một địa danh được người xưa xem là con mắt thần, là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, là báu vật thiên nhiên ban tặng cho Huế. Nếu xét về phong thuỷ thì đó là trái tim của Hoàng long - nơi ẩn giữ tiềm tàng sinh khí của đất cố đô. Xét về văn hoá, đó là kỷ niệm gắn bó với hàng vạn lứa đôi, hàng chục vạn con người dạo bước từ nhiều đời nay. Xét về mặt cảnh quan, có thể nói ở đất nước Việt Nam, ít có một ngọn đồi nhỏ bé tương tự nào có vẻ đẹp làm say mê lòng người đến thế. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên, đồi Vọng Cảnh đã trở thành một phần không thể thiếu được của văn hoá Huế, cần thiết phải giữ gìn và xây dựng. Theo cụ Cao Đình Dương thì trước đây đã có đề nghị xây "Vọng Cảnh Lâu" cho cựu Hoàng Bảo đại trên Đồi Vọng Cảnh. Nhưng khi các vị lão thần thừa lệnh đến thắp nhang khấn vái phát quang, đã chạm phải một phiến đá có ghi hàng chữ: "Vọng Cảnh vong thân. Thất thần khiếm thị", nghĩa là nếu đồi Vọng Cảnh mất đi thì thần khí vùng đất này cũng không còn và tầm nhìn cảnh đẹp cũng mất đi. Cũng có sự giải thích theo nghĩa khác là nếu ai phá huỷ thì sẽ bị liên lụy điên khùng (thất thần) và đui mù (khiếm thị). Người đương thời có khuynh hướng giải thích theo ý thứ hai nên sợ hãi, xin bãi bỏ lệnh phát quang xây "Vọng Cảnh Lâu" từ đó. Tuy đây chỉ là chuyện tương truyền mang tính thần thoại, nhưng câu chuyện cũng nói lên được nỗi trân trọng và thiêng liêng của người dân Huế đối với địa danh này.
Chiều nay chúng tôi lại trở về với Đồi Vọng cảnh. So với ngày xưa rừng thông bây giờ đã cao hẳn lên. Vẫn còn đó những chiếc lô cốt sần sùi đen trũi theo thời gian, vết tích của những năm tháng chiến tranh. Tôi lặng nhìn dòng sông và thầm so sánh với khung cảnh của nhiều năm về trước. Thật đáng tiếc, chiều nay trước mắt tôi không có những con thuyền rẽ sóng, chỉ có một con đò cắm sào giữa dòng đang khai thác cát sạn, từ chỗ đó dòng sông trở nên đục hơn, không còn cái vẻ trong xanh vốn có của nó. Ước chi …
Bâng khuâng, tôi cố vớt vát bằng cách thu gọn cảnh hoàng hôn vào trong ống kính.
Trong tâm thức người Huế, Vọng Cảnh luôn là một vùng nước non huyền thoại, là vùng ký ức của bao người xứ Huế, là vùng đất thiêng, một báu vật của đất cố đô mà các thế hệ cần phải giữ gìn, tôn tạo để Vọng Cảnh càng đẹp hơn trong dòng chảy của thiên nhiên, văn hóa và con người xứ Huế. Nếu bạn có dịp đến đây vào buổi bình minh sương tan hay lúc hoàng hôn, mới hiểu hết và thấm thía vẻ đẹp nên thơ, nên họa của một ngọn đồi, một khúc sông, một góc trời xứ Huế.
Ghé thăm chùa Linh Mụ
Dòng Hương Giang sau khi thoát qua khỏi Đồi Vọng Cảnh và núi Ngọc Trản, bỗng trở nên chậm rãi, dòng sông mở rộng ra ôm lấy những bến bãi bồi đầy phù sa màu mỡ của vùng Nguyệt Biều, Hương Hồ, Lương Quán nổi tiếng với những bãi ngô non, những vườn cây trái trĩu quả (đặc biệt vùng đất này là nơi duy nhất trồng được Thanh trà xứ Huế). Vượt qua Hương Hồ, Xước Dũ, dòng sông chia nước cho con sông Bạch Yến, con sông chảy qua trước chùa Huyền Không mà một lần tôi đã nhắc đến, rồi chảy thẳng về Đồi Hà Khê. Đến đây lòng sông mở rộng ra và dòng sông trở nên phẳng lặng khác thường.
Nếu đang xuôi thuyền theo dòng sông, ra khỏi đoạn ngoặt này, bạn sẽ nhìn thấy ngôi chùa nổi tiếng nhất trong số hàng trăm ngôi chùa cổ ở Cố đô Huế, đó là Chùa Thiên Mụ (còn gọi là Chùa Linh Mụ) cùng ngọn tháp Phước Duyên sừng sững phía bên kia sông. Đây là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế.
Có lẽ tôi không cần giới thiệu nhiều về ngôi chùa này vì nó đã quá nổi tiếng, gần như là một biểu tượng của Huế, cũng giống như chùa một Cột ở Hà Nội và chợ Bến Thành của Sài Gòn vậy. Tôi chỉ mời bạn cùng xuống thuyền vào thăm ngôi chùa này mà thôi.
Chùa được xây theo hình chữ nhất, theo đúng với hướng của kinh thành Phú Xuân, từ bến thuyền với bậc cấp, dẫn lên các bốn trụ biểu, rồi nhiều bậc cấp nữa dẫn lên nền cũ của đình Hương Nguyện, tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm.
Phía trước Nghi Môn gồm các công trình kiến trúc, có 24 bậc tam cấp lên xuống Tam Quan và 4 trụ biểu xây sát đường, từ đó có 15 bậc tam cấp dẫn đến Đình Hương Nguyện.
Phía trước Tháp Phước Duyên vua Thiệu Trị cho xây đình Hương Nguyện năm 1844 (để nhà vua dâng hương, cầu nguyện). Trận bão năm Thìn (1904) làm hư hỏng nhiều công trình trong đó có đình Hương Nguyện, nay chỉ còn là lại nền đình.
Đại Hồng Chung do chúa Nguyễn Phú Chu cho đúc năm 1710 cao 2,50m, nặng trên 2000kg và viết bài ký để khắc vào chuông. Chuông này được coi như là một pháp khí của chùa.
Tấm bia thời Lê Trung Hưng là tấm bia lớn nhất Việt Nam (Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục năm 2008).
Điện Đại Hùng là nơi thờ Phật, trung tâm của Chùa Thiên Mụ. Điện gồm 5 gian, 2 chái, được bài trí rất tôn nghiêm với nét kiến trúc đồ sộ, nguy nga. Ngoài những pho tượng Phật bằng đồng, bức hoành phi bằng gỗ sơn son thiếp vàng do tự tay Chúa Nguyễn Phúc Chu ngự đề vào năm 1714 còn có 1 chiếc khánh đồng lớn chạm hình nhật nguyệt tinh tú. Chiếc khánh đồng này do vị quan người Quảng Trị là Trần Đình Ân thuê đúc năm 1677 để cung tiến chùa.
Chùa Thiên Mụ, người có công trùng tu để giữ cho ngôi chùa lịch sử được trang nghiêm như ngày nay.
Nếu đi dọc sông Hương, qua khỏi chùa Thiên Mụ, các bạn sẽ đi qua một quãng sông Hương êm đềm của làng Kim Long, hai bên bờ là những hàng ngô non xanh mơn mởn trên dải đất phù sa ven sông. Kim Long là nơi các chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làm đất đóng đô từ năm 1636, tuy nhiên vùng đất này “trời hành cái lụt mỗi năm”, do đó đến đời chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái lại dời Phủ chúa về làng Phú Xuân. Cũng chính vì vậy mà làng Kim Long hiện nay vẫn còn rất nhiều nhà vườn và các Phủ đệ ven sông của các ông Hoàng trong gia tộc Nhà Nguyễn (hiện nay có khu nhà vườn Phú Mộng _ Kim Long là nơi thu hút khách du lịch rất nhiều). Con gái Kim Long ngày xưa nổi tiếng là khéo và đẹp, đến nỗi nhà vua cũng phải đích thân vi hành:
“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi”.
Quãng sông Kim Long này cũng từng diễn ra các cuộc thao diễn lực lượng thủy binh hùng hậu của nhà Nguyễn, mà lễ hội Festival Huế 2010 đã tái hiện lại một cách hoành tráng.
Trước khi vào trung tâm thành phố Huế, dòng sông Hương trở nên chậm rãi, tại đây phù sa bồi lắng đã tạo thành một cồn đất hình thoi nổi lên giữa sông Hương, nằm ở phía Tây nam kinh thành, gọi là Cồn Dã Viên và được xem như Bạch Hổ chầu bên phải kinh thành.
Nơi định đô gắn với việc thịnh suy của một triều đại, do đó việc chọn địa điểm xây dựng kinh thành rất được coi trọng. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, đã có tám lần các chúa Nguyễn di dời thủ phủ rồi cuối cùng trở về lại Phú Xuân. Ngày Quý Mùi tháng 4 năm Ất Sửu, năm Gia Long thứ 4 (tức 30.4.1805), Kinh thành Huế được khởi công xây dựng. Tuân thủ theo những nguyên tắc Dịch lý và Phong thủy, nhà Nguyễn đã chọn xây kinh thành vê hướng Đông Nam (thuộc phương Nam) vì Kinh dịch viết: “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương xây mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ; lấy núi Ngự Bình làm bình phong che chắn cho kinh thành; lấy sông Hương làm yếu tố minh đường, dòng sông nằm dài giữa hai cồn đất cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho Kinh thành; hai bên có Cồn Hến và Cồn Dã Viên tạo thế Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ chầu về trọng địa kinh thành. Đó là thế rồng chầu hổ phục bảo vệ cho vương triều.
Một tấm bia làm bằng đá Thanh cao 70 cm, rộng 40 cm, dày 11 cm, khắc 3 chữ đại tự "Dữ Dã Viên" và lạc khoản cho biết bia được dựng vào tháng 5 năm Tự Đức thứ 21, tức là tháng 7-1868
Cồn Dã Viên được nhắc đến nhiều trong các văn tự thời Nguyễn, đó là nơi các chúa Nguyễn đã từng tổ chức các trận đấu giữa voi (tượng trưng cho vua) và hổ (tượng trưng cho cái ác). Một chứng nhân phương Tây có mặt tại Thủ phủ Phú Xuân bấy giờ là Pierre Poivre thuật lại rằng vào năm 1750, vị chúa Nguyễn ấy và các quan trong triều đã đi trên 12 chiếc thuyền, đến đậu gần bờ bắc của cồn để xem cho đến khi 40 con voi quật chết 18 con cọp mới thôi. Tuy nhiên có lần một con hổ quá mạnh đã tát con voi gục xuống và nhảy ra phía khán giả, làm vua quan một phen khiếp sợ. Vua Minh Mạng sau đó đã xây trường đấu Hổ Quyền. Lầu ngự của vua nghe nói tồn tại đến năm 1900, còn từ 1925 thì bỏ mặc cho mưa nắng.
Cồn Dã Viên còn gắn với một công trình khác: cầu Bạch Hổ. Đó chính là cây cầu mà nếu bạn đến Huế bằng đường sắt thì trước khi vào ga Huế bán sẽ đi qua đó. Cầu được xây dựng vào năm 1908, cùng lúc với tuyến đường sắt Huế - Quảng Trị. Cầu gồm hai phần: phần phía Bắc cồn, dài 302,10m, rộng 4,05m và cao 4,35m ( bắc ngang từ bờ bắc sông Hương đến cồn Dã Viên) và phần phía Nam, dài 102,70m, rộng 4,10m và cao 4,40m (bắc ngang từ Cồn Dã Viên qua bờ Nam sông Hương). Ngày xưa kia cầu vẫn làm bằng sắt nhưng mặt cầu lát gỗ. Mấy thanh gỗ mục nát hết nên người qua cầu lúc nào cũng có cảm giác như chân mình sắp lọt tõm xuống cầu qua cái lỗ hổng rộng ngoác. Chiếc cầu hồi ấy được ngăn ba phần, ở giữa dành cho xe lửa còn hai bên dành chỉ cho khách bộ hành và xe đạp. Sau một thời gian, hư hỏng xuống cấp, cầu được trùng tu, sửa chữa, lúc này phần dành cho khách bộ hành hai bên cầu được xích lại gần nhau hơn nằm một bên của cầu và có một rào chắn ở giữa phân tách hai luồng giao thông.
Từ xưa đến nay, người Huế vẫn thường quen gọi cây cầu đường sắt bắc qua sông Hương này là cầu Bạch Hổ (hay Bạch Thổ), biển tên cầu cũng ghi rõ là cầu Bạch Hổ. Thế nhưng ít ai biết rằng, cây cầu cầu mang tên Bạch Hổ từ xưa lại không phải là cây cầu này, cũng không phải bắc qua sông Hương (thời các chúa Nguyễn chưa đủ sức làm cầu qua sông Hương), mà đó là cây cầu bắc qua sông Kẻ Vạn – con sông đào nối Sông Hương với sông An Hòa, tạo nên nhánh phía tây của tuyến thủy lộ gọi là Hộ Thành Hà. Cầu vốn được dựng bằng gỗ khoảng năm Mậu Thìn 1808, đời vua Gia Long. Tương truyền, khi cầu Bạch Hổ (lúc đó chưa được đặt tên) đang được xây cất, có một con hổ trắng đến ngồi ở giữa cầu khiến mọi người đều hoảng hốt bỏ chạy. Cũng chính vì thế mà cây cầu này được gọi là cầu Bạch Hổ. Tới đời vua Minh Mạng, vào năm 1839 cầu được đổi tên là cầu Lợi Tế. Hiện nay tấm bia Lợi Tế kiều bằng đá thanh, cao 98cm kể cả phần đế, hiện còn nguyên trạng nơi đầu cầu, có khắc dòng lạc khoản: Minh Mạng nhị thập niên Kỷ Hợi ngũ nguyệt cát nhật tạo. (Nghĩa là tạo dựng vào một ngày tốt tháng 5 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mạng XX, tức tháng 6-1839).
Năm 1990, cầu Bạch Hổ bị sập vì quá tải, nên được xây mới bằng bê tông cốt thép. Rộng 6,8m, dài 24,7m, cầu hiện nằm ngay đầu đường Kim Long – trục lộ men tả ngạn Sông Hương, xuyên qua phường Kim Long, dẫn tới chùa Thiên Mụ, nên đang được gắn biển đề cầu Kim Long.
Cầu Bạch Hổ - Cầu Lợi tế xưa và cũng là cầu Kim Long hiện nay
Hiện nay, một cây cầu mới song song, đang được xây dựng sát cạnh với cầu Dã Viên (Bạch Hổ). Cầu dài 542,5m; bề rộng cầu (4 làn xe) 24,5m, có tổng mức đầu tư là 673,042 tỷ đồng, thời hoàn thành trong 3 năm. Cầu có các vọng lâu dọc thân cầu để ngắm cảnh sông Hương, phù hợp với không gian kiến trúc của Cố đô Huế và hệ thống đèn chiếu sáng nghệ thuật cho cầu.
Mô hình cầu đang xây dựng qua sông Hương song song cầu đường sắt Bạch Hổ, trên cầu có những vọng lâu để ngắm cảnh
Bến đò Thừa Phủ dĩ vãng một thời
Qua khỏi cầu Bạch Hổ, bạn sẽ đi vào quãng sông thơ mộng nhất của sông Hương, chảy qua thành phố, hai bên bờ sông là những công trình cổ kính soi bóng : Bia Quốc Học, Bến Phu Vân Lâu, Kinh thành Huế, Nghinh Lương Đình, Đình Thương bạc và xa xưa kia còn là những bến đò một thời đã đi vào ký ức của nhiều thế hệ như bến đò Vân Lâu, bến đò Thừa Phủ, bến đò Tòa Khâm, bến đò Đập Đá,… thế nhưng bến đò lãng mạn nhất đến bây giờ vẫn lưu giữ trong ký ức những người yêu Huế, nhất là những ai đã từng trải qua một quảng đời áo trắng: bến đò Thừa Phủ với hình ảnh tà áo dài tím thướt tha của nữ sinh Đồng Khánh hàng ngày trên bến đò ngang.
Bến nằm ở bờ Nam sông Hương, bên cây đa cổ thụ trước mặt Phủ Doãn Phủ Thừa Thiên (bây giờ là UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế), bến bờ Bắc nằm gần Nghinh Lương Đình. Sỡ đĩ bến đò này có tên là Thừa Phủ vì bến này nằm trước dinh Thừa Thiên Phủ doãn, tức là nơi quan đầu tỉnh Thừa Thiên làm việc. Thừa Thiên Phủ doãn gọi tắt là Thừa Phủ. Lúc đầu (1899), Bến đò Thừa Phủ phục vụ cho nhu cầu đi lại của viên chức, lính tráng và nhân dân từ bờ bắc sang bờ Nam làm việc và quan hệ, giao tiếp. Về sau, bến đò càng phát triển khi trường Quốc Học, Nhà Thương Huế, rồi trường Đồng Khánh được xây dựng. Mãi đến khi cầu Phú Xuân, hay còn gọi là cầu Mới, được xây dựng năm 1973 thì bến đò này mới đi vào dĩ vãng. Gần 70 năm có mặt (1899-1972), không tính hết bao nhiêu chuyến đò đã cập bến rồi đi mỗi ngày trên dòng Hương thơ mộng.
Bến đò Thừa Phủ năm 1963
Cồn Hến
Sau khi qua khỏi 2 cây cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền, xuôi về phía dưới không xa là cồn Hến, lớn hơn nhiều so với Dã Viên. Cồn Hến là vùng đất bồi ra giữa sông Hương phía tả hoàng thành, cũng chia sông Hương ra làm hai nhánh. Nhánh phía Đông là ranh giới giữa Vĩ Dạ và cồn Hến, nhánh phía Tây là ranh giới giữa cồn Hến và phường Phú Cát. Theo quan niệm phong thuỷ, nó đựơc xem là Tả Thanh long của Kinh thành Huế.
Hình ảnh Cồn Hến nhìn từ thành phố
Thời gian chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725- 1738) xây dựng phủ chúa ở Phú Xuân, ông Huỳnh Tương (người xã Diên Đại, Phú Xuân, Phú Vang) đến ở dựng chòi gần đầu múi cồn phía trên ở làm nghề cào hến. Chuyện kể rằng, vợ chồng ông bà họ Huỳnh này nghèo lắm. Người chồng cần mẫn ngày đêm đi đánh bắt cá, vợ ở nhà lo chăm con. Mong kiếm thêm chút thức ăn cho gia đình, người vợ cũng cặm cụi ra bờ sông mò bắt hến. Sau, bắt được nhiều bà đem đi bán bớt. Dân Huế bắt đầu làm quen với món ăn mới, mộc mạc, hiền và rẻ của sông nước quê nhà. Những người phụ nữ khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo.
Mãi đến đầu niên hiệu Gia Long (1802-1820), phường Giang Hến ra đời, từ đó đảo nhỏ nổi giữa sông Hương, phía tả hoàng thành này được gọi là xứ (đảo) cồn Hến. Từ mò bắt bằng tay, người ta nghĩ ra cái cào để vừa đỡ vất vả vừa bắt được nhiều hến. Tương truyền, đến đời Thiệu Trị, con hến đã được bán nhiều ở khắp các chợ vùng kinh đô Huế và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người. Một đầu bếp đã dâng lên vua món ăn dân dã này. Vua Thiệu Trị ăn thử thấy ngon. Hỏi lai lịch nghề và biết được làm nghề hến hết sức cực nhọc mới ban chỉ dụ nghề hến là “nghề được miễn thuế”.
Cầu Hương Lưu dẫn vào Cồn Hến (nằm ngày đầu chợ Vỹ Dạ )
(Nghĩa là: Từ đầu nguồn đến cuối sông biển, ao hồ chịu thuế, sông nước được dùng).
Thắng kiện, phường Giang Hến kết long đình trên thuyền, trang trí cờ lọng đi rước châu phê, xã Hương Cần phải thả bà Thẹp, đưa thuyền của bà Thẹp xuống nước, dân phường Giang Hến rước về tận đình phường làm lễ tạ. Cho rằng sở dĩ làng được kiện là nhờ thần sông phù hộ, cho nên dân làng lấy ngày này làm ngày lễ tế hàng năm. Ngày chánh tế, một vị bô lão đứng chủ tế trước hương án trên một chiếc thuyền gọi là thuyền cầu nghề. Trên hương án có “sắc bằng” tổ nghề vốn vẫn được lưu giữ từ xưa tại nhà thờ họ Huỳnh, dòng họ đã khai sinh nghề hến. Thuyền được cho chạy quanh cồn Hến để thỉnh Tổ, sau đó rước về nhà thờ và hành lễ. Sau khi tế lễ xong, “sắc bằng” tổ nghề lại được trang trọng hoàn thỉnh về tại nhà thờ họ Huỳnh.
Qua thời gian, từ một ốc đảo nhỏ được đất bồi, cát lấp, cồn Hến ngày nay thành một vùng đất đai cao ráo với diện tích gần 33 ha. Ốc đảo cồn Hến ngày nay trở thành một khu dân cư đông đảo trù phú, nhà cửa, trường học, đền chùa được xây dựng khang trang. Hơn thế, đây còn có nhiều quán cơm hến, chè bắp cồn...vừa nhỏ xinh xắn nấp mình sau những lùm cây xanh, soi mình mặt nước sông Hương.
Ngoài món cơm hến, thì cồn Hến còn món chè bắp cũng nổi danh không kém, được làm từ bắp Cồn được trồng ở bãi bồi màu mỡ ven sông Hương. Chè bắp là món hấp dẫn nhất, cao sang nhất trong tất cả các món ăn chế biến từ bắp Cồn. Chè bắp thơm ngọt, không phải cái ngọt của đường mà là cái ngọt riêng của sữa bắp non. Muốn nấu chè bắp phải biết chọn hạt bắp non vừa ngậm sữa, bóc hết bẹ, bỏ hết râu, bỏ hạt sâu. Xong dùng dao bào thái theo chiều dọc quả bắp. Bào bắp xong, cùi bắp cho vào nồi luộc để lấy nước. Nước luộc cùi bắp lọc thật trong rồi thêm nước đun sôi để nấu chè. Khi nước sôi cho đường (vì nước luộc cùi bắp đã ngọt nên chỉ cần cho ít đường vừa đủ độ ngọt) và ít bột đao vào để cho chè sánh, rồi đổ bắp thái vào, khuấy đều tay, chè sôi lại là được. Chè bắp có vị ngọt thanh tao, mùi thơm mát được ưa chuộng nhất trong các loại chè ở Huế.
Nếu có dịp đến Huế, xin mời bạn đừng quên ra nơi này để thưởng thức mùi thơm béo của những bát nước hến trắng đục được lấy từ dòng Hương và vị ngọt của những bát chè bắp hôi hổi nóng được trồng từ vùng đất nổi giữa lòng sông. Nhìn bao quát, vùng cồn Hến như một hòn đảo, tô điểm thêm cho nét tươi đẹp của dòng Hương hiền hòa, thơ mộng.
Bài viết này đã kết thúc chuyến xuôi dòng Hương Giang, đưa các bạn từ từ Ngã ba Bằng Lẵng qua 7 điểm dừng cho đến Cồn Hến. Nơi đây gần như cũng là điểm dừng của các bến thuyền rồng du lịch dọc con sông hương thơ mộng. Một ngày nào đó, các bạn có dịp đến Huế, lênh đênh trên một chiếc thuyền rồng du lịch xuôi dòng Hương từ lăng Minh mạng trở về thành phố, chắc hẳn ràng các bạn sẽ cảm thấy thú vị hơn rất nhiều khi vừa được ngắm khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp vừa biết được tường tận những huyền thoại, những câu chuyện kỳ thú xoay quanh nó từ bao đời nay.
No comments:
Post a Comment